Mắt
Thông tin trong phần Hỏi & Đáp chỉ mang tính chất tham khảo. Vui lòng kiểm tra tình trạng bệnh kĩ càng với bác sĩ điều trị trực tiếp để biết thêm chi tiết. Website Kiến thức Tiểu đường không chịu trách nhiệm cho bất cứ trường hợp nào không tìm hiểu kĩ thông tin. Các thông tin tại mục này được đăng tải với mục đích hỗ trợ quá trình điều trị của bệnh nhân. Không dùng để thay thế cho chỉ dẫn của bác sĩ điều trị trực tiếp.Võng mạc là lớp mô thần kinh của mắt. Khi ánh sáng đi vào trong mắt xuyên qua giác mạc và thủy tinh thể và được hội tụ tại võng mạc. Võng mạc có chức năng chuyển ánh sáng thành thị lực và gửi thông tin ngược về não qua những dây thần kinh thị giác. Bệnh xảy ra trên võng mạc được gọi là bệnh võng mạc.
Mao mạch bị phá hủy gây tắc và thiếu máu võng mạc. Khi đó cơ thể phản ứng bằng cách tiết ra các yếu tố kích thích sự phát triển các mạch máu mới để nuôi dưỡng những vùng võng mạc bị tổn thươngnày. Tuy nhiên những mạch máu này mỏng manh dễ vỡ gây ra các biến chứng xuất huyết dịch kính, xơ hóa gây co kéo bong võng mạc
Bệnh nhân có thể khắc phục việc giảm thị lực (gặp các tật khúc xạ như cận thị, loạn thị, viễn thị, hình ảnh trên võng mạc không rõ nét,…) bằng việc đeo kính mắt hoặc kính áp tròng. Bệnh lý võng mạc là bệnh gặp phải khi cơ chế hoạt động của chức năng thu nhận hình ảnh bị hỏng và thị lực bị suy giảm, ngay cả khi tập trung nhìn vào võng mạc bằng kính mắt hoặc kính áp tròng, thị lực của người bệnh do bệnh lý võng mạc cải thiện không đáng kể. Ví dụ, cho dù bạn sử dụng loại ống kính máy ảnh đắt tiền, nhưng nếu phim bị phân tán, cũng giống như không thể chụp ảnh.
Nên kiểm soát ổn định lượng đường trong máu, phát hiện sớm bệnh lý võng mạc để điều trị kịp thời. Trước kia, người bệnh không có cách điều trị các bệnh lý võng mạc nào khác ngoài tiếp tục kiểm soát tốt lượng đường trong máu, ngoài ra việc điều trị mắt cũng khó ngay cả khi được phát hiện sớm, nhưng hiện nay đã tìm ra được phương pháp điều trị hiệu quả, bệnh nhân phải phát hiện sớm và điều trị kịp thời. Nếu người bệnh được điều trị y tế và nhãn khoa đúng cách, bệnh có thể ngừng tiến triển.
Người bệnh sẽ được khám mắt định kỳ. Bệnh nhân sẽ được kiểm tra bằng máy đo mắt, kiểm tra sự bất thường của các mạch máu trong võng mạc và võng mạc. Ngoài ra, thường sẽ có những cuộc kiểm tra ở khu dân cư, nhưng trong trường hợp bệnh nhân tiểu đường, cần được kiểm tra chính xác hơn, vì vậy nên đi khám nhãn khoa.
Khiếm thị do bệnh lý võng mạc không tiến triển dần dần khi thị lực giảm dần và cuối cùng dẫn đến mù lòa. Bệnh sẽ tiến triển không có triệu chứng cho đến khi chảy máu xảy ra trong nhãn cầu hoặc tình trạng bong võng mạc xảy ra, các triệu chứng này sẽ xuất hiện đột ngột. Điều nguy hiểm của bệnh lý võng mạc là bệnh nhân ban đầu sẽ không dễ dàng nhận ra sự nghiêm trọng của bệnh mà có thể đột nhiên dẫn đến mù lòa. Do đó, ngay cả khi không có các triệu chứng chủ quan như giảm thị lực, người bệnh nên đi khám định kỳ.
Ở giai đoạn nền của bệnh võng mạc, có những dấu hiệu cho thấy mạch máu đã bắt đầu suy yếu. Một phần của các mạch máu phồng lên và trở thành các cục u nhỏ, các thành phần máu rỉ ra khỏi các mạch máu và tạo ra các đốm như các vết trên võng mạc. Khi chưa có bất thường gì trong điểm vàng ở mắt thì bệnh không xuất hiện triệu chứng cơ năng nào.
Đây là giai đoạn mà mạch máu bị tắc và phần máu khó đi vào võng mạc. Nếu không được điều trị kịp thời nó sẽ tiến triển thành võng mạc tăng sinh, vì vậy trước giai đoạn bệnh tiến triển gọi là bệnh lý võng mạc ‘tiền’ tăng sinh. Giai đoạn này cũng không có triệu chứng cơ năng trừ khi có sự bất thường trong điểm vàng.
Là giai đoạn mà các mạch máu mới được tạo ra và phát triển, cố gắng truyền máu đến nơi các mạch máu bị tắc nghẽn và máu trở nên khó chảy. Mạch máu mới này không chỉ kéo dài đến võng mạc mà còn cho một mô không màu và trong suốt ở giữa nhãn cầu gọi là thể thủy tinh thể. Và mạch máu mới là những mạch máu rất mỏng, dễ dàng bị vỡ gây chảy máu và xuất huyết thủy tinh thể. Ngoài ra, các mạch máu mới mở rộng đến thủy tinh thể sẽ làm cho võng mạc và thủy tinh thể bám chặt vào nhau, võng mạc được kéo khi có sự thay đổi nhỏ trong thể thủy tinh và gây ra tình trạng bong võng mạc.
Bệnh võng mạc tăng sinh do tiểu đường cũng không xuất hiện triệu chứng cơ năng, trừ khi có những bất thường ở điểm vàng thì mới xuất hiện triệu chứng, ví dụ như hiện tượng Myodesopsia (hiện tượng “ruồi bay” do vẩn đục dịch kính). Bản thân bệnh nhân tiểu đường thường không nhận thấy bất thường cho đến khi bị chảy máu hoặc tình trạng bong võng mạc xảy ra.
Giống như bệnh võng mạc, các thành phần máu rò rỉ ra khỏi mạch máu của võng mạc để tích tụ trong điểm vàng ở võng mạc, võng mạc được kéo về phía trước (bên trong nhãn cầu) do co rút thể thủy tinh, do đó điểm vàng sẽ sưng lên. Những ảnh hưởng như vậy tới mắt do tiểu đường được gọi là biến chứng thoái hóa điểm vàng do tiểu đường.
Nếu là bệnh võng mạc do tiểu đường ở giai đoạn nền, có thể cải thiện bằng cách kiểm soát tốt đường huyết. Nếu bệnh tiến triển đến giai đoạn tiền tăng sinh, thiếu máu cục bộ võng mạc (trạng thái máu không được truyền đến võng mạc), nó tiến triển như một bệnh lý võng mạc, vì vậy không thể chỉ điều trị bằng việc kiểm soát đường huyết. Điều trị bằng nhãn khoa là cần thiết. Trong chữa trị nhãn khoa, có hai phương pháp chính là điều trị bằng phương pháp laser quang đông và phẫu thuật cắt dịch kính.
Laser quang đông võng mạc là phương pháp chiếu laser trực tiếp lên các vi phình mạch để tiêu diệt chúng nhằm chấm dứt hiện tượng rò rỉ, chiếu laser theo dạng lưới lên hoàng điểm để giúp giảm phù hoàng điểm, chiếu laser quang đông rải rác toàn võng mạc nhằm tiêu diệt bớt những vùng võng mạc bị thiếu máu – nơi sản xuất yếu tố tăng sinh mạch máu, giúp tránh sự tạo thành tân mạch và có thể gây thoái lui tân mạch đã hình thành, giúp giảm nhu cầu cung cấp oxy cho cơ thể.
Đốt tế bào võng mạc bằng laser quang đông chỉ phá hủy một phần của vô số tế bào võng mạc. Nó không gây đông máu trong võng mạc vì nó không tác động đến trung tâm của điểm vàng (hố thị giác- trung tâm điểm vàng- điểm có nhiều tế bào thị giác tập trung nhất, và là nơi cho chúng ta nhìn màu sắc và chi tiết rõ nhất của thị lực). Ngoài ra, nếu bệnh võng mạc tiến triển tới một mức độ nào đó, bệnh nhân cần thiết phải điều trị bằng phương pháp laser quang đông để bảo vệ điểm vàng.
Laser quang đông là phương pháp để ngăn chặn sự phát triển của các mạch máu mới gây chảy máu và bong võng mạc, không có tác dụng khôi phục lại thị lực của bệnh nhân. Cách điều trị laser quang đông này để ngăng ngừa bệnh tiến triển thêm, về cơ bản người bệnh không phục hồi thị lực đã giảm. Tuy nhiên, khi quá trình quang đông bằng laser được thực hiện để loại giảm phù hoàng điểm (giảm vết sưng của điểm vàng), thị lực có thể được phục hồi.
Hiện nay, phương pháp laser quang đông là một phương pháp điều trị an toàn, được coi là phương pháp điều trị tiêu chuẩn đề điều trị bệnh võng mạc. Tuy nhiên, dù thực hiện an toàn ức chế hoạt động của mạch máu mới hoặc điều trị phù hoàng điểm đúng cách hay chấm dứt hiện tượng rò rỉ làm gián đoạn võng mạc, nhưng vẫn có sự khác biệt về tình trạng sức khỏe, tình trạng bệnh giữa các bệnh nhân. Trong trường hợp tế bào tân mạch máu ở mắt có xu hướng mạnh mẽ, sự gia tăng có thể không dừng lại ngay cả khi thực hiện lặp lại phương pháp laser quang đông.
Phẫu thuật dịch kính là một phẫu thuật phổ biến khác cho bệnh nhân bị bệnh võng mạc do tiểu đường có tình trạng xuất huyết dịch kính. Các bác sĩ sẽ lấy đi máu và dịch kính, đồng thời cắt đi những dải xơ bám vào võng mạc ngăn ngừa khả năng co kéo gây rách và bong võng mạc. Phẫu thuật dịch kính giúp bảo vệ và phục hồi võng mạc, đặc biệt là điểm vàng. Trước khi bệnh ảnh hưởng đến tầm nhìn thì nên chủ động thực hiện phẫu thuật dịch kính.
Việc này còn phụ thuộc vào mục đích của cắt dịch kính và tình trạng võng mạc của người bệnh. Nếu võng mạc vẫn tương đối bình thường và việc thị lực giảm do xuất huyết dịch kính, thì tầm nhìn người bệnh sẽ được phục hồi bằng cách làm dịch kính trong suốt. Tuy nhiên, tình trạng rách và bong võng mạc trong thời gian dài, tế bào cảm thụ ánh sáng của điểm vàng đã thay đổi, ngay cả khi dịch kính hoặc võng mạc đã được khôi phục bằng phẫu thuật, thị lực ở người bệnh cũng không được hồi phục.
Đục thủy tinh thể là bệnh có thể xảy ra với bất cứ ai như một hiện tượng lão hóa của tuổi già. Ngoài việc người bệnh có nhận thức được triệu chứng hay không, người ta đã chỉ ra rằng sau khi kiểm tra, có hơn một nửa số người trong độ tuổi 50 và khoảng 80% ở tuổi 60 bị đục thủy tinh thể. Hay nói cách khác, đục thủy tinh thể là hiện tượng xảy ra thường xuyên không liên quan đến việc người đó có bị bệnh tiểu đường hay không. Tuy nhiên, đục thủy tinh thể có xu hướng xuất hiện sớm hơn nếu người đó bị bệnh tiểu đường. Nếu võng mạc không được quan sát kỹ ngay cả sau khi kiểm tra đáy mắt để phát hiện đục thủy tinh thể, phẫu thuật thủy tinh thể sẽ được thực hiện sớm để dễ dàng quản lý bệnh võng mạc.
Đục thủy tinh thể là tình trạng thể thủy tinh- ống kính trong suốt của mắt bị mờ đục. Bệnh đục thủy tinh thể xảy ra ở những người trưởng thành và về cơ bản đây là một hiện tượng lão hóa do tuổi tác (lão hóa), tuy nhiên nếu đục thủy tinh thể xảy ra do chấn thương hoặc khi có bệnh tiểu đường, viêm da dị ứng,…sự xuất hiện và tiến triển của bệnh đục thủy tinh thể sẽ nhanh hơn.
Do ống kính trong suốt của mắt có nhiều cặn đục nên thị lực giảm hoặc nhìn mờ. Trường hợp bắt đầu xuất hiện cặn đục từ phần trung tâm của thủy tinh thể, có thể không bị ảnh hưởng khi ở một nơi tối tăm nhưng có thể không nhìn thấy khi ở một nơi sáng sủa (vì đồng tử sẽ co lại khi ở một nơi sáng). Ngoài ra, khi hình dạng của thủy tinh thể thay đổi một chút, nó có thể dẫn đến cận thị.
Dù có những loại thuốc nhỏ mắt nhưng đây không phải là một loại thuốc có thể loại cặn đục của thủy tinh thể mà chỉ ngăn chặn sự tiến triển của độ đục. Khi thủy tinh thể bị đục và không thể chữa khỏi bằng thuốc, việc điều trị cơ bản phụ thuộc vào phẫu thuật để thay thủy tinh thể bằng ống kính nội nhãn. Tùy theo tuổi và điều kiện sống của bệnh nhân mà lựa chọn thời điểm phẫu thuật phù hợp. Bệnh nhân có thể nhập viện trong thời gian ngẵn để tiến hành phẫu thuật hoặc có thể đến phẫu thuật và về trong ngày.
Các dây thần kinh thị giác kéo dài từ các tế bào thần kinh võng mạc đến não bị đẩy bởi áp lực nội nhãn (áp lực tác dụng từ bên trong đến bên ngoài của nhãn cầu) và chức năng của dây thần kinh bị mất. Nếu tiến hành điều trị không đầy đủ, sẽ xuất hiện những bất thường về thị giác và cuối cùng dẫn đến mù lòa. Tùy thuộc vào loại bệnh tăng nhãn áp, những tổn thương về thị giác cũng có thể xảy ra. Bệnh tăng nhãn áp thường dễ khởi phát và tiến triển nhanh khi áp lực nội nhãn cang cao, nhưng tăng nhãn áp có thể tiến triển ngay cả khi áp lực nội nhãn bình thường nếu dây thần kinh thị giác yếu (tăng nhãn áp bình thường).
Với bệnh tăng nhãn áp mạn tính, phạm vi có thể nhìn thấy của mắt sẽ bị thu hẹp từng chút một. Tuy nhiên, bởi vì chúng ta thường nhìn bằng cả hai mắt nên có thể không nhận thấy triệu chứng này cho đến khi bệnh đã tiến triển và tầm nhìn khá hẹp. Trong bệnh tăng nhãn áp cấp tính (đột nhiên phát bệnh tăng nhãn áp) sẽ xuất hiện các triệu chứng như đau đầu, đau mắt, giảm thị lực, buồn nôn,…
Áp lực nội nhãn tăng lên vì nhịp độ hoạt động của phần lối thoát nước (thủy dịch) trong nhãn cầu trở nên xấu đi. Vì vậy, phương pháp điều trị để làm cho dòng chảy thủy dịch dễ dàng hơn đó là dùng thuốc ngăn chặn sự sản xuất của thủy dịch, kiểm soát áp lực nội nhãn đến một mức độ thấp hơn để dây thần kinh thị giác không bị áp lực. Nếu hiệu quả của thuốc là không đủ, nên phẫu thuật tạo ra một kênh thoát nước mới.
Các tân mạch được tạo ra trong võng mạc do bệnh võng mạc, tuy nhiên các tân mạch này cũng xuất hiện ở mống mắt làm cho dòng chảy của kênh thoát thủy dịch trở nên xấu đi và áp lực mắt tăng lên. Nếu sự phát triển của tân mạch không dừng lại, hiệu quả điều trị sẽ không được cải thiện dễ dàng.
https://kienthuctieuduong.vn
Nếu phụ nữ bị tiểu đường không bị bệnh võng mạc trước khi mang thai, người ta cho rằng việc mang thai không là nguyên nhân trực tiếp gây khởi phát mới bệnh võng mạc. Tuy nhiên, nếu phụ nữ bị bệnh võng mạc (đặc biệt là bệnh võng mạc tiền tăng sinh và bệnh võng mạc tăng sinh) trước khi mang thai, bệnh sẽ tiến triển nhanh chóng hơn khi mang thai.
Ngoài ra, nếu phụ nữ bị tiểu đường mang thai có kiểm soát đường huyết kém đột nhiên cải thiện kiểm soát đường huyết khi nhận thấy rằng mình đang mang thai, bệnh võng mạc có thể tiến triển nhanh hơn và có thể xảy ra xuất huyết.
>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh tăng nhãn áp tân mạch xảy ra do bệnh tiểu đường là bệnh như thế nào?
https://kienthuctieuduong.vn
Điều này không đúng. Nếu phụ nữ bị tiểu đường điều trị bệnh võng mạc ổn định thì có thể mang thai và sinh con bình thường. Hiện nay có một phương pháp điều trị bệnh võng mạc mới hiệu quả là laser quang đông võng mạc. Tuy nhiên, ngay cả khi phụ nữ tiểu đường mang thai có kế hoạch, phụ nữ bị tiểu đường khi mang thai cần phải kiểm tra đáy mắt thường xuyên cho đến khi sinh và quản lý tình trạng của võng mạc một cách chặt chẽ.
>> Xem thêm câu hỏi: Ảnh hưởng của việc mang thai đối với bệnh võng mạc tiểu đường là như thế nào?
https://kienthuctieuduong.vn
Danh mục nội dung
1. Tiểu đường gây ra mờ mắt ở người bệnh như thế nào?
Biến chứng tiểu đường ở mắt ảnh hưởng đến tầm nhìn của người bệnh, những biến chứng bệnh tiểu đường bị mờ mắt nặng có thể dẫn đến mù lòa. 2 biến chứng gây mù nghiêm trọng đó là bệnh lý võng mạc tiểu đường và đục thủy tinh thể.
Bệnh lý võng mạc tiểu đường
Bệnh lý võng mạc tiểu đường là thuật ngữ mô tả tình trạng rối loạn võng mạc do bệnh tiểu đường gây ra, các rối loạn có thể xảy ra là phù hoàng điểm (phần trung tâm của võng mạc hay còn gọi là điểm vàng bị sưng) và bệnh võng mạc tăng sinh (mạch máu bị rò rỉ vào trung tâm của mắt).
Trong giai đoạn ban đầu, biến chứng chưa có những triệu chứng rõ ràng, nhưng khi bệnh tiến triển, các triệu chứng có thể bao gồm:
– Trong tầm nhìn của mắt xuất hiện nhiều đốm và chuỗi mờ trôi nổi, thấy vùng tối hoặc trống.
– Tầm nhìn bị giảm, mắt nhìn mọi thứ bị mờ
– Nhìn vào màu sắc kém
– Nhiều lúc không nhìn thấy gì cả
– Bệnh lý võng mạc tiểu đường thường ảnh hưởng đến cả 2 bên mắt.
Người bị bệnh tiểu đường lâu năm và tăng đường huyết kinh niên thì nguy cơ bị nhiễm bệnh lý này cao hơn nhiều lần những người có thể kiểm soát được bệnh của mình. Theo con số thống kê, sau khoảng 10 – 15 năm người bệnh sống chung với tiểu đường thì 90% người tiểu đường tuýp 1 và 60% người tiểu đường tuýp 2 có bệnh lý võng mạc.
Đục thủy tinh thể là một trong những biến chứng của bệnh tiểu đường tác động đến thị lực
Tỷ lệ người tiểu đường tuýp 1 bị đục thủy tinh thể cao hơn tiểu đường tuýp 2, khoảng 60% bệnh nhân tiểu đường có nguy cơ bị đục thủy tinh thể và những người trẻ hơn có nhiều nguy cơ hơn.
Bệnh lý là hiện tượng thể thủy tinh trong mắt của bạn bị mờ đục, ngăn ngừa đường dẫn truyền tia sáng đến võng mạc.
Các triệu chứng ở bệnh lý đục thủy tinh thể:
– Nhìn màu sắc mờ, nhòe
– Tầm nhìn bị mờ, bị che khuất
– Mắt nhạy cảm với ánh sáng, thấy ánh sáng chói và vầng hào quang bao quanh tia sáng
– Biến chứng này thường xuất hiện ở một mắt.
– Luôn phải thay đổi đơn thuốc thường xuyên
Tiểu đường bị mờ mắt cũng có thể là dẫn đến của tăng nhãn áp
Bệnh lý xuất hiện khi áp lực trong mắt gây tổn thương thần kinh thị giác.
Theo Viện Mắt Quốc Gia, những người có bệnh tiểu đường, nguy cơ mắc bệnh tăng nhãn áp là gấp đôi so với những người trưởng thành khác.
Các triệu chứng của bệnh lý tăng nhãn áp bao gồm:
– Cảm thấy đau mắt và đỏ mắt
– Người nôn nao, buồn nôn
– Tầm nhìn bị thu hẹp thành hình ống, mất tầm nhìn ngoại biên
– Xuất hiện vầng hào quang xung quanh tia sáng
2. Nguyên nhân mờ mắt
Bị tiểu đường là một nguyên nhân dẫn đến mờ mắt, ngoài ra còn một số nguyên nhân khác dẫn đến tình trạng mắt mờ:
– Mắt bị khô
– Cận thị
– Người huyết áp thấp
– Viêm nhiễm, chấn thương mắt
– Tác dụng phụ ở một số loại thuốc kê toa đang dùng
– Dành nhiều thời gian ngồi trước máy tính, điện thoại ảnh hưởng đến tầm nhìn, gọi là hội chứng mỏi mắt kỹ thuật số. Nên khắc phục bằng cách điều chỉnh thời gian nghỉ ngơi và không gian làm việc, chú ý tầm nhìn đối với các thiết bị điện tử, nên có một khoảng cách thích hợp.
– Mờ mắt cũng là dấu hiệu của một số rối loạn hệ miễn dịch như bệnh đa xơ cứng và bệnh lupus.
3. Khi nào nên đến bệnh viện khám?
Người bị tiểu đường có nguy cơ cao gặp phải các vấn đề về mắt, vì thế phải đi khám và kiểm tra mắt thường xuyên. Hãy nói với bác sĩ điều trị về tất cả các triệu chứng và tất cả các loại thuốc mà bạn đang sử dụng.
Người tiểu đường bị mờ mắt ban đầu chỉ là một vấn đề nhỏ có thể khắc phục nhanh chóng và đơn giản như nhỏ thuốc mắt và đeo kính mới, nhưng nếu để thời gian lâu mà không có những biện pháp khắc phục, sẽ ảnh hưởng nghiêm trọng đến mắt và có thể dẫn đến mù lòa. Nên điều trị sớm để ngăn không cho bệnh nghiêm trọng hơn. Bác sĩ sẽ tìm ra nguyên nhân bệnh lý của bạn và tìm cho bạn một kế hoạch điều trị thích hợp.
4. Cách phòng ngừa biến chứng tiểu đường bị mờ mắt
Dưới đây là một số cách giúp phòng ngừa biến chứng tiểu đường bị mờ mắt:
– Duy trì ổn định chỉ số đường huyết ở mức an toàn
– Có chế độ ăn uống bổ dưỡng cho mắt: ăn các thực phẩm có Omega – 3, dầu cá, cá hồi, cà rốt, hạt điều,… giúp sáng mắt.
– Thời gian nghỉ ngơi phù hợp, ngủ đủ 6 – 8 giờ/ngày
– Luyện tập thể thao đều đặn cũng là cách tăng cường thị lực cho mắt
– Nên đi khám mắt định kỳ để phát hiện sớm những triệu chứng của bệnh lý và có những điều trị thích hợp.
Những biến chứng của bệnh tiểu đường bị mờ mắt gây ra làm bệnh nhân suy giảm thị lực, nặng có thể dẫn đến mù mắt, mất khả năng lao động và sinh hoạt của người bệnh. Để kiểm soát tốt những biến chứng về mắt do bệnh tiểu đường gây ra, nên có sự kiểm soát bệnh tiểu đường chặt chẽ, giữ đường huyết ổn định ở vùng an toàn, chế độ ăn uống và lối sống lành mạnh.
Bạn đang xem bài viết: “Bệnh lý người tiểu đường bị mờ mắt được phát hiện như thế nào?” tại Chuyên mục: “Ngân hàng câu hỏi“.
⇒ Gợi ý – Tìm Hiểu Chi Tiết:
https://kienthuctieuduong.vn/