Thông tin chung về bệnh

Thông tin trong phần Hỏi & Đáp chỉ mang tính chất tham khảo. Vui lòng kiểm tra tình trạng bệnh kĩ càng với bác sĩ điều trị trực tiếp để biết thêm chi tiết. Website Kiến thức Tiểu đường không chịu trách nhiệm cho bất cứ trường hợp nào không tìm hiểu kĩ thông tin. Các thông tin tại mục này được đăng tải với mục đích hỗ trợ quá trình điều trị của bệnh nhân. Không dùng để thay thế cho chỉ dẫn của bác sĩ điều trị trực tiếp.

Bệnh tiểu đường đang ngày càng gia tăng trên thế giới, đặc biệt là ở khu vực châu Á Thái Bình Dương trong đó có Việt Nam. Theo thống kê của Liên đoàn Y tế thế giới, trong năm 2015 có đến 415 triệu người mắc bệnh đái tháo đường, nhưng nếu tính đến 25 năm sau (tức vào năm 2040), thì con số này sẽ lên đến 642 triệu người (tăng 54%). Tại Việt Nam, theo thống kê của Bộ Y tế năm 2012, cả nước có hơn 5 triệu người mắc bệnh đái tháo đường, con số này vẫn đang tiếp tục gia tăng, và ước đoán là 10 năm sau sẽ ở mức 200%, tức vào khoảng 10 triệu người mắc bệnh. Vậy chúng ta cần phải có những giải pháp để phát hiện bệnh sớm hơn, điều trị hiệu quả và ngăn ngừa các biến chứng.

Hầu hết mọi người cho rằng có thể chữa lành bệnh đái tháo đường, nhưng thực tế thì đây là một căn bệnh không thể điều trị dứt điểm. Người bệnh không chết vì bệnh đái tháo đường mà chết vì biến chứng của nó. Nên tôi hi vọng có thể chia sẻ với các bạn về chế độ ăn uống, vận động cũng như sử dụng thuốc hợp lý, qua đó ngăn chặn và kiểm soát các biến chứng của bệnh.

Chia sẻ

Bệnh đái tháo đường thuộc nhóm bệnh rối loạn chuyển hóa, được đặc trưng bởi lượng đường trong máu tăng cao hơn mức bình thường. Tình trạng này kéo dài sẽ dẫn đến những biến chứng ở nhiều cơ quan khác như: tim, gây nhồi máu cơ tim; não, gây đột quỵ, tai biến mạch máu não, liệt nửa người; nguy cơ nhiễm trùng làm các vết thương lâu lành, khả năng dẫn đến hoại tử; thận, suy thận mãn tính giai đoạn cuối, phải chạy thận định kỳ; mắt, xuất huyết võng mạc, bong võng mạc và dẫn đến mù lòa.

Hiện nay, Tổ chức Y tế thế giới phân ra 4 loại đái tháo đường: loại 1, loại 2, các thể đặc biệt và đái tháo đường thai kỳ. Đái tháo đường loại 2 chiếm tỉ lệ cao nhất vào khoảng 85-95% các trường hợp, do đó, tôi xin nhấn mạnh đến bệnh đái tháo đường loại 2. Loại bệnh này đã phổ biến ở Mỹ rất nhiều năm, thường không có triệu chứng gì rõ rệt và phát triển thầm lặng trong giai đoạn đầu. Người bệnh chỉ phát hiện tình cờ khi đi khám sức khỏe định kỳ hoặc làm các xét nghiệm tiền phẫu khác (ví dụ: mổ sỏi thận, mổ ruột thừa, mổ u xơ tuyến tiền liệt, ung thư). Khi bệnh đã vào giai đoạn muộn, người bệnh đến khám với những triệu chứng khá rõ rệt như: ăn nhiều, uống nước nhiều, tiểu nhiều và sụt cân nhiều (thường gọi là hội chứng 4 nhiều). Đôi khi bệnh nhân cũng có những triệu chứng như: đi tiểu thấy kiến bu, bất lực trong chuyện phòng the và vết thương lâu lành.

Chia sẻ

Sinh bệnh học hay còn gọi là các yếu tố nguy cơ của bệnh đái tháo đường có liên quan đến di truyền, các bệnh lý về gen hoặc do môi trường. Tùy theo loại bệnh đái tháo đường mà phân ra các nguyên nhân và yếu tố nguy cơ khác nhau. Ví dụ, bệnh nhân đái tháo đường loại 1 thường xuất hiện ở người trẻ nhiều hơn, do tuyến tụy bị phá hủy dẫn đến thiếu insulin tuyệt đối, phải sử dụng đến insulin ngoại sinh. Khi tuyến tụy bị phá hủy từ 75-80% thì bệnh sẽ xuất hiện trên lâm sàng và người bệnh thường đến bệnh viện với tình trạng cạn kiệt insulin hoàn toàn.

Bình thường, tuyến tụy có chức năng nội tiết và ngoại tiết. Về chức năng nội tiết, tế bào beta tiết ra hoóc-môn gọi là insulin, có tác dụng làm hạ mức đường trong máu xuống, điều hòa và ổn định, để không bị mất cân bằng lượng đường huyết. Ở người bình thường, khi ăn vào, lượng đường trong máu sẽ tăng lên, kích thích tế bào beta sản sinh ra insulin, đưa lượng đường huyết trở về mức bình thường. Khi tụy không tiết ra insulin nữa, sẽ khiến chúng ta mắc bệnh đái tháo đường.

Nếu bệnh nhân bị nhiễm đái tháo đường thể đặc biệt, thì có liên quan đến các bệnh lý về gen, làm giảm chức năng hoạt động của tế bào beta (tế bào tiết ra insulin). Có thể do bệnh nhân tiếp xúc các loại thuốc như thuốc diệt chuột, thuốc corticoid điều trị viêm khớp, hóa chất… hoặc bị nhiễm trùng, nhiễm virus, chấn thương tụy (ung thư tụy, cắt bỏ tụy).

Ở bệnh nhân đái tháo đường loại 2 hay đái tháo đường thai kỳ, các nguyên nhân cũng tương tự nhau: do di truyền (trong gia đình có người thân mắc bệnh); do môi trường, xã hội ngày càng phát triển, khiến chúng ta có một lối sống lười vận động, thường xuyên dùng ôtô/xe máy mà ít khi đi bộ hay đi xe đạp; chế độ ăn nhiều chất béo bão hòa, quá dư thừa năng lượng dẫn đến thừa cân, béo phì.

Tổn thương tuyến tụy là một trong những nguyên nhân gây ra đái tháo đường
Chia sẻ

Tiểu đường là tình trạng lượng glucose trong máu (lượng đường trong máu) vượt quá tỷ lệ nhất định.

Chia sẻ

Một người chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường khi được xác nhận là có mức đường huyết cao. Để kiểm tra lượng đường trong máu, những người bị nghi ngờ mắc bệnh tiểu đường sẽ phải tiến hành một thử nghiệm gọi là: “thử nghiệm dung nạp glucose”. Người tiến hành kiểm tra sẽ đưa cho bạn uống 75 gam chất lỏng hòa tan glucose (thêm tải glucose vào cơ thể), để theo dõi những thay đổi lượng đường trong máu, từ đó xác định bệnh tiểu đường. Việc kiểm tra sẽ được đánh giá bởi các tiêu chí. Khi lượng đường máu ở gần ngưỡng giới hạn nguy hiểm thì xét nghiệm được thực hiện hai lần để kiểm tra độ chính xác.

Ngoài chẩn đoán bằng chỉ số đường huyết, nó có thể được chẩn đoán bằng giá trị xét nghiệm HbA1c. HbA1c là giá trị kiểm tra lượng đường máu trung bình trong thời gian 1 – 2 tháng qua kể từ thời điểm kiểm tra. Ngay cả khi lượng đường trong máu ở mức bình thường tại thời điểm kiểm tra, nhưng chỉ số HbA1c cao (lượng đường trong máu đã duy trì tình trạng cao trong vòng 1 – 2 tháng qua) thì có thể đó là dấu hiệu chẩn đoán bệnh tiểu đường.

Tiêu chí đánh giá khi kiểm tra “thử nghiệm dung nạp glucose”:

– Đáp ứng một trong hai hoặc cả hai trường hợp: lượng đường trong máu khi đói ở mức 126 mg/dL, lượng đường trong máu sau 2 giờ dung nạp glucose ở mức ≥ 200 mg/dL thì sẽ được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường.

– Lượng đường trong máu khi đói ở mức dưới 110 mg/dL và lượng đường trong máu sau 2 giờ dung nạp glucose ở mức < 140 mg/dL thì được đánh giá là bình thường.

– Khi không thuộc hai loại trên thì bạn sẽ được chẩn đoán ở giai đoạn tiền tiểu đường, “mức ranh giới”.

Chia sẻ

Đúng vậy. Nên điều trị ngay bệnh tiểu đường nếu được chẩn đoán bệnh mà bạn không xuất hiện các biến chứng. Mục tiêu quan trọng trong điều trị tiểu đường là ngăn ngừa biến chứng và ức chế sự tiến triển của biển chứng.

Chia sẻ

Biến chứng là loại bệnh mới phát sinh liên quan đến một bệnh nào đó. Nếu không kiểm soát được bệnh tiểu đường, sẽ xảy ra tình trạng rối loạn mạch máu nhỏ trên toàn bộ cơ thể, cuối cùng xảy ra các bệnh về mắt, thận và dây thần kinh. Đó là một vài biến chứng của bệnh tiểu đường.

Chia sẻ

Ngay cả khi tăng đường huyết (lượng đường trong máu cao hơn bình thường) không xuất hiện trong các triệu chứng cơ năng, tình trạng này cũng tạo gánh nặng cho cơ thể. Gánh nặng đó gây ra các tổn thương khác nhau trên toàn cơ thể. Nói một cách đơn giản, tăng đường huyết là một tình trạng làm tăng nhanh sự lão hóa của cơ thể. Kết quả sẽ gây ra các biến chứng nguy hiểm cần ngăn ngừa, dẫn đến tình trạng không thể khắc phục. Có thể khẳng định rằng các biến chứng tiểu đường sẽ vẫn phát triển và tiến triển ngay cả khi tăng đường huyết không xuất hiện trong các triệu chứng cơ năng.

Chia sẻ

Insulin là một hormon được tiết ra từ tuyến tụy. Insulin có hiệu quả giúp toàn bộ tế bào cơ thể hấp thu glucose (đường huyết) và sử dụng đường này như năng lượng cho mọi hoạt động của cơ thể. Khi insulin hoạt động không hiệu quả, đường không được đưa vào tế bào. Kết quả là, lượng đường trong máu sẽ dư thừa và gây tăng đường huyết.

Chia sẻ

Có hai lý do. Một là chức năng tiết insulin của tuyến tụy suy giảm và lượng insulin trong máu giảm. Một lý do nữa là độ nhạy của các tế bào đối với insulin giảm. Sự giảm độ nhạy của tế bào với insulin được gọi là “tính kháng insulin”. Trong tình trạng kháng insulin, mặc dù lượng insulin tiết đủ nhưng vẫn gây tăng đường huyết.

Chia sẻ

Là căn bệnh khởi phát ở người có thể trạng di truyền dễ bị bệnh và có lối sống không lành mạnh như ăn quá nhiều, thiếu tập vận động, căng thẳng kéo dài. Các bệnh lối sống là bệnh tiểu đường, tăng huyết áp, tăng lipid máu, ung thư, đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim, đột quỵ,…và nó gần như giống với các bệnh trước đây gọi là “bệnh ở người trưởng thành”. Các bệnh này thường xảy ra do lão hóa (sự gia tăng của tuổi tác), tuy nhiên có thể phòng ngừa bệnh khởi phát bằng cách điều chỉnh lối sống và việc cải thiện thói quen lối sống khi đang điều trị bệnh cũng mang lại nhiều hiệu quả tốt hơn.

Chia sẻ

Bệnh tiểu đường tuýp 2 là bệnh do các yếu tố di truyền như sự tiết insulin bị giảm hoặc thể trạng có tính kháng insulin. Mặc dù được di truyền thể trạng như vậy nhưng xác suất khởi phát bệnh có thể được giữ ở mức thấp nếu ảnh hưởng đến cơ thể do lối sống là nhỏ. Ngược lại, khi không có nền tảng di truyền thể trạng như vậy, nếu bệnh tiểu đường tuýp 2 không khởi phát dù lối sống bị xáo trộn thì thật tốt.

Chia sẻ

Để kiểm tra tất cả những người có quan hệ ruột thịt như cha mẹ, ông bà, họ hàng anh chị em ruột, anh em họ có bị bệnh tiểu đường là điều khá khó khăn. Mọi người không chủ động nói về bệnh tật của bản thân và gia đình khi không cần thiêt. Vì vậy dù chưa bao giờ nghe câu chuyện rằng có người trong gia đình bị tiểu đường, cúng không thể đảm bảo không có nền tảng di truyền bệnh. Ngoài ra, ngay cả trong gia đình thực sự không có người bị bệnh tiểu đường, vẫn chưa chắc chắn rằng yếu tố di truyền thể trạng bệnh tiểu đường sẽ di truyền như thế nào. Nếu thế hệ tổ tiên đời trước có người bị tiểu đường thì bệnh cũng có thể xuất hiện ở đời sau và trường hợp ảnh hưởng của lối sống đến cơ thể mạnh thì tỷ lệ mắc bệnh cũng tăng cao.

Chia sẻ

“Trong trường hợp bệnh tiểu đường tuýp 2, khả năng tiết insulin giảm hoặc kháng insulin, vì vậy không thể nói rằng mức đường trong máu không thể được giữ trong phạm vi bình thường. Tiết insulin không bao giờ dừng lại. Như đã đề cập trong Q.22, nguyên nhân của sự khởi đầu không chỉ là hiến pháp di truyền mà còn là mối quan hệ giữa tuổi già và lối sống lâu dài có liên quan rất lớn. Bởi vì điều này, bệnh tiểu đường tuýp 2 phát triển thường xuyên hơn ở người cao tuổi từ trung niên trở lên và từ 40 tuổi trở lên.

Cách điều trị cơ bản là liệu pháp ăn uống hoặc liệu pháp tập thể dục, làm giảm lượng insulin cần thiết và tăng độ nhạy insulin (hủy bỏ kháng insulin). Nếu điều trị bằng chế độ ăn uống và liệu pháp tập thể dục một mình không làm giảm lượng đường trong máu đủ, điều trị bằng thuốc sẽ được bổ sung. Ngoài ra, gần 80% người mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 là những người hiện đang bị béo phì hoặc đã có một thời kỳ bị béo phì trong quá khứ. Như một điều kiện tiên quyết cho điều trị, nó là điều cần thiết để tuýp bỏ bệnh béo phì và duy trì trọng lượng thích hợp.

Trong bệnh tiểu đường tuýp 2, bài tiết insulin được giữ ở một mức độ nhất định, vì vậy không có nhiều đường trong máu cao không phải là quá nhiều. Mặt khác, rất khó cho các triệu chứng chủ quan xuất hiện quá nhiều, rất khó để nhận ra rằng bạn bị bệnh. Vì lý do này, không có nhiều người không nhận thấy rằng họ bị tiểu đường và không điều trị đúng cách ngay cả khi họ biết. Tuy nhiên, để phòng ngừa các biến chứng, điều quan trọng là tiếp tục điều trị bất kể triệu chứng chủ quan.”

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Đường trong nước tiểu được bài tiết khi lượng đường trong máu vượt quá 160~180 mg/dL (chỉ số này sẽ khác nhau tùy từng người). Như đã giải thích trong Q.9, tình trạng với lượng đường trong máu khi đói ≥126 mg/dL là mức đường huyết xác định chẩn đoán bệnh tiểu đường. Điều này có nghĩa là đường có thể không được bài tiết trong nước tiểu ngay cả khi ở mức đường huyết xác định bệnh tiểu đường. Vì vậy, suy nghĩ “nếu đường không xuất hiện trong nước tiểu nghĩa là đã chữa khỏi bệnh tiểu đường” là không đúng.

Chia sẻ

Đó là “bệnh tiểu đường tuýp 1”, “bệnh tiểu đường do một bệnh và cơ chế cụ thể khác” và “bệnh tiểu đường thai kỳ”.

Chia sẻ

Là một loại bệnh tiểu đường trong đó các tế bào tạo insulin trong tuyến tụy ( tế bào β) bị phá hủy và hầu như không tiết ra insulin. Nguyên nhân khởi phát bệnh không phải chỉ do bệnh tự miễn dịch mà còn có trường hợp không rõ nguyên nhân. Đây là bệnh không liên quan đến lối sống. Ngoài ra, bệnh tiểu đường tuýp 2 là bệnh khởi phát liên quan tương đối mạnh đến các yếu tố di truyền, tuy nhiên trường hợp bệnh tiểu đường tuýp 1 cũng có liên quan đến yếu tố di truyền nhưng không quá mạnh và điển hình. Nếu bệnh tiểu đường tuýp 2 phát triển thường khởi phát ở người trưởng thành thì bệnh tiểu đường tuýp 1 khởi phát phần lớn từ trẻ sơ sinh đến trẻ vị thành niên. Do ngay khi bệnh khởi phát, sự tiết insulin sẽ biến mất nên cần bổ sung insulin bằng cách tiêm từ bên ngoài cơ thể để duy trì tính mạng. Vì vậy liệu pháp insulin là cần thiết đối với bệnh tiểu đường tuýp 1.

Chia sẻ

Mặc dù hệ thống miễn dịch hoạt động để loại bỏ vi khuẩn và virus xâm nhập từ bên ngoài cơ thể hoặc phát sinh trong cơ thể, tuy nhiên hiện tượng hệ thống miễn dịch hoạt động chống lại chính tế bào của chủ thể gọi là bệnh tự miễn dịch. Bệnh này là nguyên nhân gây ra bệnh tiểu đường tuýp 1, viêm khớp dạng thấp, lupus ban đỏ hệ thống,…Trong bệnh tiểu đường tuýp 1 do tính tự miễn dịch, các tế bào β tuyến tụy (tế bào sản xuất insulin) bị phá hủy bởi chính hệ thống miễn dịch và gây ra bệnh.

Chia sẻ

Với những tiến bộ trong nghiên cứu di truyền, người ta đã chỉ ra rằng các vấn đề di truyền có liên quan đến sự khởi phát của nhiều bệnh. Một số bất thường về yếu tố di truyền liên quan trực tiếp đến sự khởi phát bệnh tiểu đường cũng đã được tìm thấy.
Ngoài ra, những bất thường trong quá trình trao đổi chất đường có thể xảy ra do ảnh hưởng của một căn bệnh khác ngoài bệnh tiểu đường. Đó là các bệnh như viêm tụy, hội chứng Cushing, bệnh to đầu chi, glucagonoma, bệnh cường giáp trạng, hội chứng Down, sử dụng lâu dài các loại thuốc ảnh hưởng đến lượng đường trong máu như steroid và thuốc lợi tiểu, tuyến tụy bị loại bỏ bởi ung thư tuyến tụy. Loại bệnh tiểu đường này còn được gọi là “bệnh tiểu đường thứ phát”.

Chia sẻ

Bệnh tiểu đường thai kỳ là tình trạng bất thường chuyển hóa đường xảy ra khi mang thai đối với những phụ nữ chưa từng bị tiểu đường. Trong bệnh tiểu đường này, lượng đường trong máu thai phụ sẽ không tăng quá cao, tuy nhiên dù chỉ tăng đường huyết nhẹ cũng gây ảnh hưởng không tốt đến thai nhi, vì vậy việc kiểm soát đường huyết nghiêm ngặt là cần thiết. Cụ thể, ở phụ nữ bị tiểu đường thai kỳ các hiện tượng dị tật thai nhi, thai nhi phát triển quá mức, trẻ sinh non, thai nhi chết trong tử cung,…có nhiều khả năng xảy ra hơn.

Sau khi sinh, chỉ số đường huyết thường trở lại bình thường, tuy nhiên nhiều trường hợp bệnh tiểu đường khởi phát lại vài năm sau đó, nên cần phải khám sức khỏe thường xuyên.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

“Phân loại tiểu đường tuýp 1 và tuýp 2 là phân loại theo nguyên nhân của bệnh tiểu đường. Để nắm bắt chính xác bệnh tiểu đường, cần phải biết nguyên nhân của bệnh tiểu đường cũng như tình trạng bệnh tiểu đường (mức độ tăng đường huyết) một cách đầy đủ.
Tình trạng sự tiết insulin gần như biến mất, đường huyết tăng cao và cần điều trị bằng liệu pháp insulin để bổ sung insulin từ bên ngoài vào cơ thể được gọi là “”trạng thái phụ thuộc insulin””. Ngược lại, tình trạng vẫn còn sự tiết insulin và có thể duy trì cuộc sống mà không cần điều trị bằng insulin được gọi là “”trạng thái không phụ thuộc insulin””. Trước đây người ta thường gọi tình trạng thứ nhất là IDDM (tiểu đường phụ thuộc insulin) và đôi khi được sử dụng cùng nghĩa với bệnh tiểu đường tuýp 1. Tình trạng thứ hai được gọi là NIDDM (tiểu đường không phụ thuộc insulin), được dùng chủ yếu như một thuật ngữ đề cập đến bệnh tiểu đường tuýp 2. Thật vậy, phần lớn bệnh tiểu đường tuýp 1 là phụ thuộc insulin và bệnh tiểu đường tuýp 2 là không phụ thuộc insulin, tuy nhiên không thể sử dụng cùng một ý nghĩa. Cũng có trường hợp liệu pháp insulin tạm thời không cần thiết ngay cả đối với tuýp 1 và có những trường hợp ngược lại xảy ra với tuýp 2.”

Chia sẻ

Sự khác biệt giữa IDDM và NIDDM là liệu liệu pháp insulin có cần thiết để duy trì cuộc sống hay không, thay vì đơn giản là liệu bệnh nhân có đang điều trị bằng insulin hay không. Hầu hết bệnh nhân thuộc tuýp 1 được coi là IDDM. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân tuýp 2 đang điều trị bằng liệu pháp insulin để quản lý đường trong máu, trường hợp này tương ứng với NIDDM.

Chia sẻ

Trạng thái không phụ thuộc Insulin (NIDDM) được chia thành hai loại. Một là tình trạng có thể quản lý lượng đường trong máu nhờ việc điều trị bằng liệu pháp ăn uống, liệu pháp vận động, điều trị bằng thuốc uống (uống thuốc) mà không cần điều trị bằng insulin. Thứ hai là tình trạng không thể quản lý tốt lượng đường trong máu nếu không điều trị bằng liệu pháp insulin dù liệu pháp insulin không thực sự cần thiết để duy trì cuộc sống. Loại thứ hai này dù gọi là trạng thái không phụ thuộc insulin (một tình trạng gọi là NIDDM) nhưng vẫn cần điều trị bằng insulin.

Chia sẻ

Không phải như vậy. Phân loại tuýp 1 và tuýp 2 là phân loại dựa trên nguyên nhân gây khởi phát bệnh tiểu đường. Vì nguyên nhân của 2 loại là khác nhau nên bệnh tiểu đường tuýp 2 không tiến triển thành bệnh tiểu đường tuýp 1. Tuy nhiên, cũng có loại “bệnh tiểu đường tuýp 1 tiến triển chậm” có thời gian tiến triển như bệnh tiểu đường tuýp 2 sau khi bệnh khởi phát và dần dần tiến triển thành trạng thái phụ thuộc insulin.

Chia sẻ

Đã có một số thống kê về số lượng bệnh nhân tiểu đường được công bố. Và số liệu được sử dụng nhiều nhất trong những năm gần đây là kết quả của “Khảo sát sức khỏe và dinh dưỡng quốc gia” do Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi xã hội Nhật Bản thực hiện năm 2007. Trong cuộc khảo sát này, người ta ước tính rằng “những người bị nghi ngờ mắc bệnh tiểu đường” là 8,9 triệu người, “những người chắc chắn bị bệnh tiểu đường” là 13,2 triệu người, tổng cộng là 22 triệu người.

Chia sẻ

Không. Số bệnh nhân tiểu đường được ước tính là 8,9 triệu người, trong đó theo thống kê của Bộ Y tế, Lao động và Phúc lợi “Khảo sát bệnh nhân” năm 2008, có khoảng 2,71 triệu kết quả. Nghĩa là có khoảng 1/4 người đang được chữa trị bệnh. Lý do là, ngay cả khi người bệnh tiểu đường có lượng đường máu cao nhưng hầu như ít xuất hiện triệu chứng, và đều không phải những dấu hiệu bất thường để cảnh báo người bệnh rằng mình bị bệnh, người bệnh sẽ chủ quan mà bỏ qua những thay đổi sức khỏe đó. Với lượng đường máu luôn ở tình trạng cao thì sẽ xuất hiện nhiều biến chứng, trừ khi được điều trị thì mới ngăn chặn được nguy cơ biến chứng. Hiện tại, để giảm sự khác biệt giữa hai thống kê này, những nỗ lực để loại bỏ bệnh đái tháo đường được triển khai trong nhiều lĩnh vực khác nhau, kể cả các cơ quan hành chính.

Chia sẻ

Nếu không điều trị tiểu đường thì sẽ xuất hiện nhiều biến chứng. Khi các biến chứng đã tiến triển do không điều trị tiểu đường và đưa ra một vài dấu hiệu, bệnh nhân đến khám bệnh nhưng đã quá muộn, thường có nhiều trường hợp đáng tiếc dẫn đến người bệnh khuyết tật nặng, gặp trở ngại trong sinh hoạt. Khi được chẩn đoán tiểu đường, có vẻ như bệnh nhân đều cảm thấy đó là một cuộc điều trị không dễ dàng, cảm thấy chán nản và không muốn thừa nhận rằng mình mắc bệnh. Nhưng tại sao bạn không nghĩ tích cực hơn rằng: “Tôi cảm thấy may mắn khi bệnh tiểu đường được phát hiện sớm trước khi các biến chứng xảy ra.”

Chia sẻ

Bạn cần biết rằng, tiểu đường là bệnh không phù hợp với khái niệm “chữa khỏi”. Lý do là, bạn có thể giảm lượng đường trong máu của mình xuống mức bình thường nếu được điều trị đúng cách, tuy nhiên nếu ngừng điều trị, lượng đường máu dễ dàng bị cao trở lại.
Người ta không gọi bệnh tiểu đường là “bệnh có thể phục hồi” hoặc “bệnh không thể phục hồi”. Nếu bạn tiếp tục điều trị tiểu đường và kiểm soát lượng đường trong máu với phạm vi mục tiêu, ổn định thì bệnh nhân tiểu đường có thể ở tình trạng tương tự như một người khỏe mạnh trong suốt cuộc đời.

Chia sẻ

Những biến chứng hầu như không xảy ra nếu kiểm soát chặt chẽ lượng đường trong máu. Một cuộc khảo sát được tiến hành ở cả Nhật Bản và nước ngoài đã chứng thực thông tin trên. DDCT (kiểm tra bệnh tiểu đường và thử nghiệm biến chứng) cho những người mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 và nghiên cứu ở Kumamoto cho những người mắc bệnh tiểu đường tuýp 2. Cả hai đều cho kết quả theo chiều hướng tích cực để khuyến khích những bệnh nhân tiếp tục điều trị với bằng chứng rõ ràng là: “Người bệnh sẽ gặp ít biến chứng hơn khi họ tiếp tục kiểm soát chặt chẽ lượng đường trong máu”.

Chia sẻ

Hãy dần dần tìm hiểu thêm về bệnh tiểu đường, làm thế nào để tăng đường huyết, hạ đường huyết, tham khảo những lời khuyên về liệu pháp ăn uống, liệu pháp tập luyện. Kết quả điều trị bệnh tiểu đường chủ yếu phụ thuộc vào sự hiểu biết của bệnh nhân đó về bệnh mình đang mắc phải.
Không cần phải sốt ruột, lo lắng khi điều trị, cần thiết để thực hành chắc chắn từng chút một, hiểu rõ những gì bạn đang thực hiện cho sức khỏe của mình.

Chia sẻ

Khi bạn ở tình trạng béo phì hoặc thừa cân, bạn sẽ khó kiểm soát lượng đường trong máu của mình, lượng đường huyết sẽ không giảm nhiều như mục tiêu. Ngoài ra, béo phì và thừa cân cũng có thể gây ra các bệnh về lối sống khác ngoài bệnh tiểu đường, chẳng hạn như tăng huyết áp và tăng lipid máu, và tăng nguy cơ gặp các biến chứng. Khi bệnh nhân tiểu đường bị béo phì/ thừa cân giảm trọng lượng, lượng đường trong máu của họ thường giảm.

Chia sẻ

Chắc chắn một người đàn ông tốt sẽ có vẻ nhìn phải khỏe mạnh từ cái nhìn đầu tiên. Tuy nhiên, béo phì không phải một tình trạng khỏe mạnh. Con người cần ăn thức ăn để sống và bổ sung năng lượng (calo). Tuy nhiên, tình trạng “béo phì” là tích tụ nhiều năng lượng hơn mức cần thiết trong cơ thể.

Chia sẻ

Béo phì là tình trạng dư thừa mỡ trong cơ thể, không quan trọng là bạn có đang nặng cân hay không. Tuy nhiên, không thể đo lường chính xác được lượng mỡ trong cơ thể, không thực tế về mặt thời gian hay chi phí, do đó người ta thường chẩn đoán béo phì bằng chỉ số BMI (hay chỉ số khối cơ thể) dựa vào trọng lượng và chiều cao của người đó.
.

Chia sẻ

BMI tính bằng trọng lượng cơ thể (kg) chia cho chiều cao (m) bình phương.
Ví dụ trong trường hợp một người nặng 75kg, cao 170cm thì BMI = 75 : (1,7 x 1,7) = 25,95 làm tròn đến dấu thập phân hai con số gần nhất => BMI của người đó sẽ là 26.

Chia sẻ

BMI từ 25 trở lên được đánh giá là béo phì. Người có BMI ≥ 25, tăng nguy cơ gặp các bệnh về lối sống như tăng huyết áp, tăng lipid máu, không chỉ là bệnh tiểu đường.
Người bình thường có BMI từ 18,5 đến dưới 25.

Chia sẻ

Theo thống kê, BMI ≥ 25 xuất hiện tình trạng tăng huyết áp, và tăng lipid máu, triglyceride cao, HDL cholesterol thấp. BMI ≥ 27 ở người bị tiểu đường. BMI ≥ 28, tăng gấp đôi nguy cơ cholesterol trong máu.

Chia sẻ

Không thể nói rằng bạn giảm cân thì bạn sẽ không bị tiểu đường. Tiểu đường tuýp 2 là căn bệnh liên quan chặt chẽ tới lối sống, do đó những người béo phì, có lối sống không khoa học thường có nguy cơ cao mắc bệnh này. Trong thực tế, có tới 70 đến 80 % bệnh nhân tiểu đường hiện đang bị béo phì hoặc từng bị béo phì trước đây (những người hiện tại đã giảm cân).
Ngoài ra, bệnh tiểu đường tuýp 1 tiến triển không tương quan với trọng lượng cơ thể của bạn.

Chia sẻ

Trọng lượng tiêu chuẩn tương ứng với BMI = 22. Bằng cách bình phương chiều cao (m) nhân với 22, bạn có thể biết được trọng lượng lý tưởng của bạn. Ví dụ, nếu bạn cao 170 cm, tính trọng lượng lý tưởng là 1,7 x 1,7 x 22 = 63,58. Như vậy cân nặng 64 kg là lý tưởng.

Chia sẻ

Lý tưởng để giảm cân cho đến khi bạn đạt trọng lượng tiêu chuẩn, nhưng sẽ khá khó khăn để giải quyết tình trạng béo phì đã xảy ra trong nhiều năm khi sống không khoa học trong một thời gian ngắn. Tuy nhiên, không phải việc giảm cân này là không có ý nghĩa, đối với người béo phì giảm một lượng nhỏ cũng mang lại sự tích cực trong sức khỏe. Trừ trường hợp cần giảm cân nhanh chóng để điều trị, mục tiêu giảm 3 -5 phần trăm trọng lượng cơ thể trong khoảng thời gian từ hai đến ba tháng ( nghĩa là một người nặng 80kg thì cần giảm 2 -4 kg), cần có một mục tiêu nhất định để giảm cân dễ dàng hơn. Khi giảm cân cần chú ý tới lượng đường máu và huyết áp.

Chia sẻ

Khi những người tiểu đường bị thừa cân và béo phì giảm cân, mức đường trong máu sẽ giảm, vì vậy họ đều nghĩ rằng mình đã chữa khỏi bệnh tiểu đường. Ngay sau khi trở lại lối sống trước khi giảm cân, lượng đường trong máu sẽ tăng trở lại. Nếu bạn giảm cân và lượng đường trong máu đã giảm, hãy tiếp tục kiểm soát cân nặng để duy trì trạng thái ổn định này.

Chia sẻ

Nó mang đến hiệu quả như một động lực để duy trì sức khỏe. Tốt nhất nên có thói quen kiểm tra trọng lượng cơ thể thường xuyên. Bạn có thể sử dụng nó để kiểm tra việc giảm cân có hiệu quả hay không (kiểm tra lượng giảm mỡ và không giảm cơ).

Chia sẻ

Cân đo lượng mỡ cơ thể phân tích trở kháng điện sinh học (BIA), đo lường sự trở kháng của cơ thể với một dòng điện, và sử dụng để ước tính chính xác lượng chất béo là trên cơ thể của bạn. Vì lý do này, kết quả đo sẽ thay đổi do độ ẩm trong cơ thể và tư thế tại thời điểm đo. Hãy cố gắng đo lường trong cùng một thời điểm mỗi ngày. Ngoài ra, chúng ta nên theo dõi kết quả trong thời gian dài tuần hoặc tháng, không nên suy nghĩ về sự thay đổi trong cơ thể trong một lần đo.

Chia sẻ

Chất béo tích tụ trong mô dưới da được gọi là “mỡ dưới da” và chất béo bao bọc quanh các cơ quan nội tạng trong dạ dày được gọi là “mỡ nội tạng”. Chất béo nội tạng có hại cho cơ thể và liên quan chặt chẽ tới sự khởi phát của các bệnh về lối sống. Hơn nữa, sự tích tụ của mỡ nội tạng khó phát hiện ra, diễn biến âm thầm và nguy hiểm cho sức khỏe.

Chia sẻ

Cách đo chính xác là thông qua việc chụp CT, nhưng cũng có thể đo vòng eo để đánh giá sơ bộ. Đối với Người Nhật, những người có nguy cơ tích tụ chất béo nội tạng là BMI 25 trở lên, eo 85 cm ở nam giới và 90 cm đối với nữ giới.

Chia sẻ

Đúng vậy, khi chức năng của tế bào beta của tuyến tụy suy giảm, giảm tiết insulin, khả năng hấp thụ glucose trong máu vào tế bào kém hơn. Năng lượng cần thiết cho cơ thể sẽ được bài tiết dưới dạng đường trong nước tiểu, cơ thể sẽ sử dụng chất béo như một nguồn năng lượng thay vì glucose, vì thế trọng lượng cơ thể bị giảm đột ngột.

Chia sẻ

Khi bệnh tiểu đường khởi phát và người bệnh đột ngột giảm cân, bệnh nhân không nên kiểm soát bằng giảm cân, thay vào đó bạn phải bắt đầu chữa trị càng sớm càng tốt.

Chia sẻ

Việc kiểm tra bệnh tiểu đường được chia thành(1) kiểm tra để phát hiện bệnh tiểu đường, (2) kiểm tra để chẩn đoán, (3) kiểm tra xác nhận hiệu quả điều trị, (4) kiểm tra các biến chứng và bệnh đồng khởi phát, (5) kiểm tra chi tiết các nguyên nhân gây tăng đường huyết và các loại bệnh tiểu đường, (6) những kiểm tra bệnh nhân có thể tự thực hiện. Những người bị nghi ngờ có bệnh tiểu đường trong kiểm tra (1) nên tiếp nhận việc kiểm tra (2), nếu được chẩn đoán là bệnh tiểu đường, sẽ bắt đầu tiến hành điều trị, kiểm tra (3) và (4) sẽ giúp xác nhận hiệu quả điều trị và việc bệnh nhân có biến chứng không để tiếp tục điều trị, trong khoảng thời gian này, bệnh nhân sẽ thực hiện các kiểm tra (5) và (6) để có thể điều chỉnh việc điều trị phù hợp.

Chia sẻ

Bởi vì bệnh tiểu đường có ít triệu chứng cơ năng nên đây là một căn bệnh thường được phát hiện khi bệnh nhân khám bệnh tại nơi sinh sống và tại nơi làm việc. Nếu lượng đường trong máu cao khi xét nghiệm máu và khi kiểm tra nước tiểu có kết quả dương tính về lượng đường trong nước tiểu (trong nước tiểu có đường) thì có thể nghi ngờ đó là bệnh tiểu đường, do đó cần có kiểm tra thứ cấp (kiểm tra chi tiết).

Chia sẻ

Trong xét nghiệm máu, thông thường sẽ lấy máu trong tình trạng đói, chỉ số đường huyết dưới 110 mg/dL là mức tiêu chuẩn bình thường không phải bệnh tiểu đường. Tuy nhiên nếu chỉ số đường huyết là ≥110 mg/dL, khả năng có thể nghi ngờ bị bệnh tiểu đường, nếu chỉ số này ≥126 mg/dL khả năng bị bệnh tiểu đường khá cao.

 

Chia sẻ

Trường hợp nghi ngờ bệnh tiểu đường, thực hiện “thử nghiệm dung nạp glucose đường uống” để chẩn đoán bệnh. Tuy nhiên, trong trường hợp chắc chắn là bệnh tiểu đường như khi chỉ số đường huyết rất cao, hoặc phát hiện biến chứng vốn có của bệnh tiểu đường, điều trị có thể được tiến hành ngày mà không cần kiểm tra thêm.

Chia sẻ

“Xác nhận hiệu quả điều trị” của bệnh tiểu đường là để kiểm tra “trong thời gian điều trị, lượng đường trong máu có được kiểm soát gần với giá trị bình thường không”. Các kiểm tra sau đây được sử dụng để xác nhận hiệu quả điều trị. Ngoài kiểm tra đường trong nước tiểu, tất cả đều là xét nghiệm máu.

Mục kiểm tra                       Điều cần biết từ kết quả kiểm tra

Đường huyết                      Chỉ số đường huyết tại thời điểm kiểm tra

Đường trong nước tiểu      Tiêu chuẩn chung về tăng đường huyết sau khi đi vệ sinh lần cuối

HbA1c                                Tình trạng kiểm soát đường huyết trong 1~2 tháng qua

1,5-AG                                Tình trạng kiểm soát đường huyết trong vài ngày qua

Glycoalbumin                     Tình trạng kiểm soát đường huyết trong 2 tuần~1 tháng qua

Fructosamine                     Tình trạng kiểm soát đường huyết trong 2 tuần~1 tháng qua

Chia sẻ

Sự khác biệt lớn nhất là bệnh nhân có thể biết được tình trạng kiểm soát đường huyết trong bao lâu. Kiểm tra HbA1c có thể giúp bệnh nhân nắm bắt tình trạng kiểm soát đường huyết trong thời gian dài nhất, tiếp theo lần lượt giảm dần là kiểm tra glycoalbumin (fructosamine), 1,5-AG, đường trong nước tiểu, chỉ số đường huyết là giá trị tức thời tại thời điểm kiểm tra.
Trong số các kiểm tra này, kiểm tra đường trong nước tiểu có thể dễ thực hiện mà không cần lấy máu, nhưng bệnh nhân chỉ có thể phán đoán được lượng đường trong máu cao hay không cao. Bên cạnh đó, 1,5-AG phản ứng tương đối nhạy khi chỉ số đường huyết cao nhẹ, rất phù hợp để nhận biết trường hợp những người có chỉ số đường huyết cao sau khi ăn mà không dễ thấy.
Mặt khác, nếu xem xét lần tần số đến viện của bệnh nhân, kiểm tra HbA1c giúp bệnh nhân biết được tình trạng kiểm soát đường huyết trong một thời gian dài khoảng 1~2 tháng qua, trong kiểm tra 1,5-AG chỉ cho biết tình trạng kiểm soát của một vài ngày, nếu bệnh nhân chỉ đến viện 1 lần trong 1 tháng, thời gian quá dài và kết quả kiểm tra có thể không chính xác. Tuy nhiên, để bệnh nhân có thể nhận biết được những thay đổi và ảnh hưởng tại những thời điểm như ngay sau khi bắt đầu điều trị tiểu đường, ngay sau khi thay đổi loại và số lượng thuốc, ngay sau khi thay đổi mô hình và môi trường sống, các loại kiểm tra như 1,5-AG và glycoalbumin có hiệu quả tốt.
Bệnh nhân nên tự xem xét các vấn đề của bản thân và thực hiện loại kiểm tra phù hợp nhất. Nhìn chung, kiểm tra HbA1c thường được thực hiện hơn.

Chia sẻ

HbA1c còn được đọc là Hemoglobin A1C (hoặc HBA). Đôi khi còn được gọi là GHb (glycohemoglobin). HbA1c là chỉ số kiểm tra lượng hemoglobin, Hb (hemoglobin) chứa trong hồng cầu được liên kết với glucose. Hb (hemoglobin) là thành phần chính của tế bào hồng cầu trong máu, đóng vai trò vận chuyển oxy đi khắp cơ thể qua dòng máu. Hemoglobin có đặc tính là dễ dàng ràng buộc với glucose (đường trong máu), hiện tương này gọi là “glycosyl hóa”. Nếu tình trạng của lượng đường trong máu cao, tỷ lệ hemoglobin glycated trên toàn bộ Hemoglobin (Hb) cao, tức là giá trị của chỉ số HbA1c cao. Xét nghiệm HbA1c được sử dụng để đánh giá tình hình điều trị của bệnh tiểu đường thông qua hiện tượng này.

Chia sẻ

Cho thấy chu kỳ bán rã (thời gian cần thiết để giảm một nửa) số lượng hồng cầu được tạo ra trong cơ thể trong khoảng một tháng. Từ đó, HbA1c sẽ hiện thị tình trạng kiểm soát đường huyết trong khoảng từ 1 – 2 tháng kể từ thời điểm kiểm tra. Vì kết quả được biểu thị bằng tỷ lệ hemoglobin glycated trên toàn bộ Hb (hemoglobin) nên đơn vị là %.

Chia sẻ

Giá trị tham chiếu của HbA1c là 4,6 đến 6,2% (giá trị NGSP).
Ký hiệu giá trị JDS được sử dụng trước đó là 4,3 đến 5,8%.

Chia sẻ

Tuy nhiên, giá trị mục tiêu điều trị có thể được quyết định tùy từng tình trạng bệnh nhân: tuổi tác, hạ đường huyết, biến chứng mà người bệnh gặp phải,…

Chia sẻ

Hemoglobin bị glycosyl hóa không xảy ra ngay lập tức khi các tế bào hồng cầu được hình thành, phải mất một thời gian sau đó. Bên cạnh đó glycated hemoglobin cũng không ngay lập tức bị loại bỏ khi kiểm soát đường huyết tốt hơn, nó sẽ tiếp tục tồn tại trong máu tới khi các tế bào hồng cầu kiệt sức (tuổi thọ tế bào hồng cầu thường từ khoảng 60 đến 120 ngày). Do đó, khi thay đổi kiểm soát trong một thời gian ngắn trước khi kiểm tra, sự thay đổi sẽ không được phản ánh nhiều trong giá trị HbA1c. Những thay đổi trong giá trị HbA1c sẽ được xác nhận chính xác trong đợt kiểm tra tiếp theo.

Bên cạnh đó, nếu tuổi thọ của tế bào hồng cầu ngắn hơn bình thường, tỷ lệ các tế bào hồng cầu bị đường hóa sẽ thấp hơn do tế bào hồng cầu mới tăng, do đó,giá trị của HbA1c thấp hơn so với tình trạng lượng đường trong máu thực sự. Những trường hợp cụ thể có thể xảy ra bao gồm thiếu máu, chảy máu, kỳ thuật thẩm tách trong chạy thận nhân tạo, xơ gan, mang thai,…Ngược lại trong suy thận (uremia),…giá trị HbA1c có thể cao hơn so với tình trạng đường huyết thực tế

Chia sẻ

1,5-AG là một thành phần rất giống với glucose có chứa trong thực phẩm. 1,5-AG gần như không có chức năng như một chất dinh dưỡng, nhưng giống với glucose, chất này luôn tồn tại trong máu với một lượng nhất định.
Khi lượng đường trong máu cao, lượng đường huyết dư thừa (glucose trong máu) ở thận được bài tiết trong nước tiểu, vì vậy có đường xuất hiện trong nước tiểu. Đồng thời lúc đó 1,5-AG- một chất rất giống với glucose cũng được bài tiết qua nước tiểu. Do đó, 1,5-AG trong máu giảm dần mỗi khi đường xuất hiện trong nước tiểu. Kiểm tra 1,5-AG là nhằm đánh giá tình hình điều trị bệnh tiểu đường bằng cách tận dụng tính chất của 1,5-AG và kiểm tra nồng độ 1,5-AG trong máu.

Chia sẻ

Giá trị của 1,5-AG giảm cùng với sự bài tiết của đường trong nước tiểu. Tuy nhiên, khi chỉ số đường huyết tăng cao sau khi ăn và đường xuất hiện trong nước tiểu, giá trị kiểm tra 1,5-AG không giảm xuống ngay mà được phản ánh trong kết quả kiểm tra phần được bài tiết trong vài ngày qua trên tổng số. Nói cách khác, kiểm tra 1,5-AG, bạn sẽ cho thấy tình trạng kiểm soát đường huyết của vài ngày trở lại từ thời điểm kiểm tra. Kết quả kiểm tra biểu thị nồng độ 1,5-AG trong máu và đơn vị là “μg/mL”.

Chia sẻ

Giá trị tiêu chuẩn là ≥14,0 μg/mL, khi việc kiểm soát lượng đường trong máu không tốt và lượng đường được bài tiết nhiều trong nước tiểu thì giá trị 1,5-AG càng thấp. Tuy nhiên, đối với những người bị glucose niệu do bệnh thận, giá trị kiểm tra này sẽ thấp ngay cả khi không phải là bệnh tiểu đường. Bên cạnh đó, giá trị 1,5-AG có thể giảm trong trường hợp suy thận hoặc mang thai, hoặc sử dụng thuốc điều trị tiểu đường acarbose (một loại chất ức chế α-glucosidase giúp cải thiện tăng đường huyết sau bữa ăn, tên sản phẩm: glucobay).

Chia sẻ

“Glyco” của glycoalbumin giống như “glyco” của glycohemoglobin (cùng nghĩa là GHb.HbA1C) và nó biểu thị sự “glycosyl hóa”. Albumin là một loại protein (albumin là protein có nhiều trong máu). Vì vậy, glycoalbumin có nghĩa là albumin trong máu được glycosyl hóa. Nếu tình trạng lượng đường trong máu cao tiếp tục tiếp diễn, glycosyl hóa của albumin cũng sẽ tiến triển giống như hemoglobin. Kiểm tra glycoalbumin là để đánh giá tình hình điều trị bệnh tiểu đường bằng cách kiểm tra có bao nhiêu albumin được glycosyl hóa.

Chia sẻ

Chu kỳ bán rã của albumin là 2 tuần hoặc lâu hơn, do đó bệnh nhân có thể biết được tình trạng kiểm soát đường huyết trong khoảng 2 tuần~1 tháng kể từ thời điểm kiểm tra. Kết quả kiểm tra biểu thị bằng tỷ lệ albumin được glycosyl hóa trên toàn bộ albumin trong máu, nên đơn vị là “%”.

Chia sẻ

Giá trị tiêu chuẩn là khoảng 11~16%. Nếu việc kiểm soát lượng đường trong máu không tốt, giá trị này sẽ cao hơn. Tuy nhiên, nếu albumin có chu kỳ bán rã ngắn (do hội chứng thận hư hoặc bệnh cường giáp), albumin sẽ được tái sinh trước khi nó được glycosyl hóa, vì vậy giá trị kiểm tra glycoalbumin sẽ thấp hơn. Ngược lại, các tình trạng như viêm gan, xơ gan, suy giáp,…có thể làm giảm albumin mới, do đó giá trị kiểm tra sẽ cao hơn.

Chia sẻ

Fructosamine là một chất được sản xuất bằng cách glycosyl hóa các protein trong máu bằng đường huyết (glucose). Tất nhiên, albumin đã được glycosyl hóa (glycoalbumin) cũng bao gồm trong đó. Khi tình trạng của lượng đường trong máu cao liên tục kéo dài, quá trình glycosyl hóa protein tiến triển, do đó có thể xác định tình trạng điều trị bệnh tiểu đường bằng cách kiểm tra lượng protein đã glycosyl hóa.

Chia sẻ

Giống với glycoalbumin, bệnh nhân có thể biết được tình trạng kiểm soát đường huyết từ khoảng 2 tuần~1 tháng kể từ thời điểm kiểm tra. Kết quả kiểm tra cho thấy nồng độ lượng fructosamine trong máu và đơn vị là “μmol/L”.

Chia sẻ

Giá trị tiêu chuẩn là khoảng 210~290 μmol/L. Nếu việc kiểm soát lượng đường trong máu không tốt, giá trị sẽ cao hơn. Tuy nhiên, giống như glycoalbumin, nếu tuổi thọ của protein biến đổi, kết quả kiểm tra cũng sẽ bị ảnh hưởng. Ngoài ra, khi lượng protein trong máu thấp (giảm protein huyết), lượng fructosamine sẽ ít đi, do đó kết quả kiểm tra thấp hơn so với tình trạng kiểm soát đường huyết thực tế. Tình trạng giảm protein huyết ngoài xảy ra ở những người bị các bệnh như thận và gan, còn phổ biến ở trẻ em và phụ nữ mang thai.

Bạn đang xem giải đáp câu hỏi: Giá trị kiểm tra fructosamine bình thường là bao nhiêu? Tại Ngân hàng câu hỏi cho người bệnh tiểu đường

Chia sẻ

Có nhiều biến chứng trong bệnh tiểu đường. Do đó, để phát hiện sớm các biến chứng và điều trị hợp lý, cần rất nhiều bài kiểm tra. Kiểm tra để phát hiện và quản lý các biến chứng sẽ được đưa ra tùy vào từng biến chứng khác nhau.

Chia sẻ

Thể ketone có liên quan đến các biến chứng cấp tính trong các biến chứng bệnh tiểu đường, đặc biệt là ở những người bị bệnh tiểu đường phụ thuộc insulin (chủ yếu là tiểu đường tuýp 1). Mặt khác, những giá trị kiểm tra AST và ALT sẽ tăng cao khi gan bị tổn thương mà không liên quan trực tiếp đến bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, vì nhiều người mắc bệnh tiểu đường có bệnh gan như gan nhiễm mỡ nên cũng cần ghi nhớ về những kiểm tra này.

Chia sẻ

Thể Ketone là những chất được tạo ra bằng cách biến đổi chất béo trong cơ thể và được sử dụng làm nguồn năng lượng. Thể ketone cũng tồn tại trong máu của những người khỏe mạnh, nhưng số lượng không quá nhiều. Tuy nhiên, khi hiệu quả của insulin không tốt ở những người bị bệnh tiểu đường, đường hấp thụ vào cơ thể sẽ không được chuyển hóa thành năng lượng, tăng tỷ lệ chất béo được sử dụng thay thế nguồn năng lượng, do đó thể ketone cũng sẽ tăng lên. Tình trạng số lượng thể ketone trong máu tăng lên được gọi là “ketosis”. Vì thể ketone có tính axit nên khi số lượng thể ketone tăng lên, máu trở nên có tính axit (máu vốn có tính kiềm yếu). Trạng thái trong đó máu có tính axit được gọi là “nhiễm toan”, nhưng nếu nguyên nhân là ketosis, nó được gọi là “nhiễm toan ketone”. Trong tình trạng nhiễm toan ketone sẽ xuất hiện các hiện tượng như đau bụng, buồn nôn, thở sâu và nhanh,…sẽ xuất hiện. Bên cạnh đó, bệnh nhân có thể bị suy giảm ý thức, rơi vào tình trạng hôn mê và có thể nguy hiểm đến tinh mạng, đây được cho là biến chứng cấp tính của bệnh tiểu đường cần phải điều trị kịp thời.

Chia sẻ

Kiểm tra thể keton là cần thiết để chẩn đoán ketosis và nhiễm toan ketone. Để biết chính xác tình trạng bệnh cần đo chỉ số thể ketone có trong máu, nhưng cũng có thể đánh giá bằng kiểm tra liệu thể ketone trong nước tiểu là dương tính hay âm tính. Thông thường, chỉ số thể ketone trong nước tiểu là âm tính. Đối với những người bị tiểu đường phụ thuộc insulin (chủ yếu là tiểu đường tuýp 1), sự tăng thể ketone tỷ lệ với chỉ số đường huyết khi đói tăng cao.

Chia sẻ

GOT · GPT (gần đây còn được gọi là AST · ALT) là các enzym có nhiều trong gan. Khi gan bị quá tải và các tế bào gan bị phá vỡ, các enzym này sẽ xuất hiện trong máu. Kiểm tra GOT · GPT là kiểm tra số lượng enzym này bằng xét nghiệm máu. Giới hạn trên của giá trị tiêu chuẩn là 40~50 IU/L, và nếu giá trị này cao thì điều đó có nghĩa là rất nhiều tế bào gan đã bị phá hủy trước khi kiểm tra. Ngoài ra, do tế bào gan sẽ tái tạo nhanh chóng dù chúng bị phá hủy, nên giá trị GOT · GPT và tình trạng nghiêm trọng của bệnh gan không nhất thiết tương đương nhau. Mặt khác, nếu chức năng gan suy giảm do xơ gan,…GOT · GPT sẽ giảm xuống. Vì vậy, để biết chính xác mức độ tiến triển của bệnh gan như thế nào, cần thực hiện một cuộc kiểm tra khác.

Chia sẻ

Có 2 nguyên nhân làm tăng lượng đường trong máu (gây tăng đường huyết) là: (1) lượng insulin tiết ra ít, (2) độ nhạy của tế bào với tác dụng của insulin giảm (tính kháng insulin ). Bằng cách kiểm tra mức độ của từng nguyên nhân (1) và (2), có thể tiến hành điều trị chính xác hơn (như thay đổi thuốc).

Xét nghiệm để kiểm tra nguyên nhân (1) thì ngoài xét nghiệm đo kiểm tra insulin, C-peptide trong máu và C-peptide trong nước tiểu thì còn có thử nghiệm dung nạp glucose, và test dung nạp glucagon. Về nguyên nhân (2), các loại xét nghiệm như test dung nạp insulin, phương pháp kẹp glucose, chỉ số HOMA – 2,…được thực hiện. Trong những năm gần đây, các gen và kháng thể gây tăng đường huyết và bệnh tiểu đường đang trở nên rõ ràng. Đôi khi xét nghiệm các yếu tố này có thể giúp đánh giá loại bệnh tiểu đường.

Chia sẻ

Insulin được tiết ra từ tuyến tụy và là một loại hoóc-môn duy nhất có tác dụng làm giảm lượng đường trong máu. Bằng cách đo nồng độ insulin trong máu, chúng ta có thể suy ra tình trạng làm việc của tuyến tụy.

Chia sẻ

Khi insulin được tiết ra, nó được sử dụng trong một thời gian rất ngắn, vì vậy giá trị kiểm tra thay đổi rất nhiều tùy thuộc vào thời điểm đo lường. Đối với những người khỏe mạnh, sau khi ăn uống, nồng độ insulin sẽ sớm tăng lên, nhưng đối với bệnh nhân tiểu đường, nồng độ insulin sẽ mất thời gian khá dài để bắt đầu tăng lên và lượng tăng lên cũng không đủ. Đặc biệt trong trường hợp bệnh tiểu đường tuýp 1 trước khi bắt đầu điều trị, mức insulin lúc đói là thấp và vẫn thấp sau khi ăn. Nếu bệnh nhân bắt đầu điều trị insulin ngay lập tức trong tình trạng như vậy, sau đó nồng độ insulin lên xuống tùy thuộc vào số lượng tiêm insulin (Điều này cũng đúng trong trường hợp bệnh tiểu đường khác ngoài bệnh tiểu đường tuýp 1 đang điều trị bằng insulin).

Do đó nồng độ insulin thường thấp trong bệnh tiểu đường, nhưng nồng độ insulin không quá thấp hoặc khá cao trong bệnh tiểu đường khác ngoài bệnh tiểu đường tuýp 1 (chủ yếu là tuýp 2). Trong trường hợp đó, tình trạng tăng đường huyết là do tính kháng insulin.

Ngoài ra, có thể không đo chính xác được nồng độ insulin ở những người bị kháng insulin, kết quả nhận được sẽ là nồng độ insulin cao (kháng thể insulin, ngoài trường hợp được tạo ra bất thường ở những người đang tiến hành điều trị bằng insulin còn có ở những người không điều trị bằng insulin).

Chia sẻ

Tiền chất (tiền thân) có thể tạo nên insulin được gọi là “proinsulin”. C-peptide là một phần của proinsulin này. Khi insulin phân tách ra từ proinsulin và được tiết vào trong máu, cùng một lượng C-peptid cũng sẽ đồng thời xuất hiện trong máu. Vì vậy, bằng cách đo nồng độ C-peptide trong máu, mọi người có thể biết được lượng insulin tiết ra.

Tuy nhiên hiện nay, chức năng của chính C-peptide chưa được hiểu rõ. Nhưng người ta cho rằng C-peptide không đóng một vai trò quá lớn.

Chia sẻ

Việc đo C-peptide trong máu được sử dụng để điều tra chức năng của tuyến tụy của một bệnh nhân có xét nghiệm nồng độ insulin trong máu không hiệu quả như trường hợp bệnh nhân đang điều trị bằng insulin. Ngoài ra, không giống như insulin, C-peptide không được sử dụng trong gan nên nó ở lại trong máu trong một thời gian dài (chu kỳ bán rã của insulin là khoảng 4 phút, trong khi đó của C-peptide là khoảng 30 phút). Do đó, đây cũng là một khía cạnh thuận lợi để kiểm tra khả năng tiết insulin của tuyến tụy so với việc đo nồng độ insulin trong máu thay đổi về số lượng trong một thời gian ngắn.

Chia sẻ

C-peptide, không giống như insulin, được bài tiết lẫn trong nước tiểu mà không được sử dụng trong cơ thể. Vì vậy, cũng có thể đo lượng C-peptide trong xét nghiệm nước tiểu. Trong xét nghiệm nước tiểu, nước tiểu được tích trữ trong một thời gian nhất định (chủ yếu là 24 giờ) và đo lượng C-peptide chứa trong nước tiểu này.

Do xét nghiệm C- peptide trong máu có thể cho thấy nồng độ của C-peptide tại thời điểm lấy máu nên từ đó có thể kiểm tra sự chênh lệch trước và sau bữa ăn, biết được phản ứng của việc tiết insulin, tuy nhiên lại không biết được tổng lượng C-peptide (được cho là gần giống như tổng lượng insulin được tiết ra). Mặt khác, xét nghiệm C- peptide trong nước tiểu không thể cho thấy sự thay đổi theo thời gian của lượng insulin tiết ra, nhưng có thể ước tính được bao nhiêu lượng insulin được tiết ra trong 1 ngày.

Trường hợp bị bệnh thận, C-peptide trong máu có thể cao hơn, C-peptidetrong nước tiểu có thể thấp hơn.

Chia sẻ

Thử nghiệm dung nạp glucose đường uống là một trong những xét nghiệm để chẩn đoán bệnh tiểu đường. Thử nghiệm được tiến hành bằng cách cho người được kiểm tra hấp thụ dung dịch chứa 75 g glucose và sau đó đánh giá xem người đó có bị bệnh tiểu đường hay không dựa trên sự thay đổi giá trị glucose trong máu sau đó. Đồng thời, khi đo nồng độ insulin (hoặc C-peptide) trong máu, có thể biết được tuyến tụy có khả năng bài tiết insulin không.

Trong trường hợp này, phép tính sau đây được thực hiện bằng cách chia sự khác biệt giữa nồng độ insulin trong máu trước khi uống glucose và nồng độ insulin trong máu 30 phút sau khi uống glucose với sự khác biệt về biến động chỉ số đường huyết xảy ra trong cùng một thời điểm. Người ta đánh giá rằng kết quả phép tính này càng thấp thì khả năng tiết insulin và khả năng phản ứng của insulin càng suy giảm. Đây được gọi là chỉ số tiết insulin (Insulinogenic Index: I I) và trong bệnh tiểu đường, giá trị này thường thấp dưới 0,4.

I I = Δ I R I (30 ‘- 0’) U / mL / PG (30 ‘- 0’) mg / dL

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Glucagon là một loại hormone được tiết ra từ các tế bào alpha tuyến tụy, có tác dụng phá vỡ glycogen trong gan để tăng mức đường huyết và kích thích bài tiết insulin. Test dung nạp glucagon là để kiểm tra khả năng bài tiết insulin của tuyến tụy dựa trên mức đường huyết và nồng độ insulin trong máu (hoặc C-peptide) sau khi tiêm glucagon. Test dung nạp glucagon tương tự như xét nghiệm dung nạp glucose, nhưng glucagon kích thích trực tiếp các tế bào beta trong tuyến tụy để thúc đẩy bài tiết insulin, vì vậy đây là một thử nghiệm tốt để nhằm mục tiêu tăng khả năng tiết insulin.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đây là một phương pháp để điều tra mức độ tính kháng insulin. Sau khi tiêm insulin từ tĩnh mạch, hãy đo mức đường huyết cứ sau vài phút. Nếu không có tính kháng insulin, nồng độ glucose trong máu sẽ giảm do tác dụng của insulin được tiêm, nhưng nếu có tính kháng insulin thì tốc độ giảm của chỉ số đường huyết sẽ chậm.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đây cũng là một phương pháp để kiểm tra mức độ tính kháng insulin. Trong khi tiêm insulin, tiếp tục tiêm glucose cùng một lúc để lượng đường trong máu trở nên không đổi. Nếu lượng glucose cần thiết để duy trì lượng đường trong máu không đổi càng nhiều, độ nhạy insulin tốt (tính kháng insulin thấp), nếu không đủ lượng glucose thì cho thấy độ nhạy insulin thấp (tính kháng insulin cao).

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đây là một chỉ số chỉ ra mức độ kháng insulin thu được theo công thức tính toán dưới đây từ chỉ số đường huyết lúc đói và nồng độ insulin. Việc tính toán chỉ số này thường được sử dụng như một phương pháp để xác định tình trạng tính kháng insulin của bệnh nhân tiểu đường mức độ nhẹ có lượng bài tiết insulin được duy trì tương đối tốt. Chỉ số này càng lớn, khả năng tính kháng insulin càng mạnh. Chỉ số bình thường là 2 hoặc ít hơn.

HOMA-R = chỉ số đường huyết lúc đói × nồng độ insulin lúc đói ÷ 405

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Phần lớn bệnh tiểu đường ở Nhật Bản là bệnh tiểu đường tuýp 2. Bệnh tiểu đường tuýp 2 được gọi là “bệnh lối sống”, nhưng dù có cùng lối sống nhưng có người lại không bị bệnh tiểu đường và có người lại bị bệnh tiểu đường, trường hợp này được lý giải là do liên quan đến các vấn đề gen di truyền. Cụ thể, loại gen nào gây ra bệnh tiểu đường thì hiện vẫn chưa rõ ràng. Một số gen được cho là khiến cho bệnh tiểu đường dễ xảy ra gần đây mới bắt đầu được tìm thấy.

Liên quan đến bệnh tiểu đường tuýp 1, nguyên nhân do các yếu tố di truyền đã được cho là ít hơn bệnh tiểu đường tuýp 2, nhưng mối quan hệ gen di truyền cũng được nhìn thấy trong bệnh tiểu đường tuýp 1. Ngoài ra, tại thời điểm khởi phát bệnh, dù được chẩn đoán là bệnh tiểu đường tuýp 2 nhưng cũng có trường hợp khả năng bài tiết insulin suy giảm và bệnh nhân cần phụ thuộc vào insulin hay còn có thể nói rằng bệnh tiểu đường đã trở thành bệnh tiểu đường tuýp 1 tiến triển chậm. Trường hợp này được cho là có liên quan đến sự tồn tại của một số kháng thể, và việc kiểm tra sự có hay không của các kháng thể có thể giúp chẩn đoán đúng loại bệnh tiểu đường.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh nhân tiểu đường có thể tự đo trọng lượng cơ thể, mỡ cơ thể, đường nước tiểu, protein nước tiểu, thể ketone trong nước tiểu, huyết áp, đường huyết,…tại nhà.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Việc kiểm tra cân nặng là một cách mà bệnh nhân tiểu đường có thể nhanh chóng kiểm tra xem liệu chế độ ăn uốngtập luyện hàng ngày có được thực hiện đúng cách hay không. Đặc biệt vì bệnh tiểu đường tuýp 2 là một bệnh có liên quan sâu sắc đến tình trạng béo phì, bệnh nhân hãy cố gắng duy trì cân nặng phù hợp nhất có thể. Hãy quyết định khoảng thời gian kiểm tra cân nặng (ví dụ sau khi thức dậy) để các điều kiện kiểm tra không thay đổi.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nguyên nhân phổ biến nhất của việc tăng cân là ăn quá nhiều và thiếu tập luyện. Khi kiểm soát đường huyết trở nên ổn định, bệnh nhân tiểu đường thường cảm thấy an tâm và có xu hướng bỏ bê chế độ ăn uống và tập luyện. Hãy luôn nhớ tình trạng khi bắt đầu điều trị để không chủ quan, lơ là điều trị.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nguyên nhân của việc giảm cân có thể do việc hạn chế lượng năng lượng hấp thụ không phù hợp với lượng vận động (khối lượng công việc). Nếu chỉ xem xét kiểm soát đường huyết, cân nặng thấp hơn một chút là tốt, tuy nhiên có thể gây ra vấn đề là người bệnh trở nên suy dinh dưỡng. Nên hấp thụ lượng năng lượng không quá nhiều cũng không quá ít, điều quan trọng là phải tuân thủ lượng thích hợp.

Một nguyên nhân khác của việc giảm cân là do những gì bệnh nhân ăn vào có thể không được sử dụng làm chất dinh dưỡng do bệnh tiểu đường trở nên tồi tệ hơn (giảm bài tiết insulin). Ngoài ra việc giảm cân cũng có thể là do ảnh hưởng của các bệnh khác như ung thư và bệnh lao. Trong mọi trường hợp, điều trị sớm là cần thiết, vì vậy trường hợp cân nặng cơ thể bệnh nhân giảm không rõ nguyên do, hãy tham khảo ý kiến bác sĩ càng sớm càng tốt để kiểm tra nguyên nhân.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Chất béo đóng vai trò là nguồn dự trữ năng lượng, tuy nhiên chất béo cũng làm tăng nồng độ lipid trong máu gây tăng lipid máu hoặc giải phóng các chất gây cản trở chức năng của insulin, tăng tính kháng insulin và gây bệnh tiểu đường. Việc duy trì tỷ lệ mỡ cơ thể thích hợp cũng có hiệu quả trong việc ngăn ngừa bệnh tiểu đường và các biến chứng của bệnh tiểu đường.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Vì lượng glucose trong máu (đường huyết) rất cần thiết cho cơ thể nên glucose không được bài tiết với số lượng lớn qua nước tiểu. Tuy nhiên, khi lượng đường trong máu tăng cao, chẳng hạn như sau bữa ăn, một lượng đường nhỏ (50 mg/dL trở xuống) ở người bình thường và một lượng đường lớn (100 mg/dL trở lên) ở bệnh nhân tiểu đường sẽ đi qua thận và xuất hiện trong nước tiểu. Đó là đường trong nước tiểu. Từ kết quả kiểm tra đường trong nước tiểu âm tính hay dương tính, trường hợp kết quả dương tính, mọi người có thể nắm bắt được lượng đường trong máu một cách khái quát.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh nhân có thể dễ dàng đo lượng đường trong nước tiểu bằng cách sử dụng giấy thử. Lấy nước tiểu và cho vào lọ đựng, ngâm giấy thử trong đó sau đó lấy ra ngay lập tức và xem màu sắc của giấy thử dựa theo bảng hướng dẫn đánh giá kết quả kiểm tra. So sánh màu sắc của giấy thử với bảng tông màu và đánh giá xem kết quả là âm tính hay dương tính và mức độ như thế nào trong trường hợp kết quả dương tính.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Cần phải hiểu rõ việc đo lượng đường trong nước tiểu, chẳng hạn như tuân thủ phương pháp đo chính xác và không thể khẳng định rằng bệnh tiểu đường được điều trị tốt do kết quả lượng đường trong nước tiểu là âm tính.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Chỉ số đường huyết mà lượng đường trong nước tiểu trở nên dương tính (100 mg/dL trở lên) trên giấy thử là từ khoảng 170 mg/dL trở lên (Ở người cao tuổi, dù chỉ số đường huyết tăng cao thì lượng đường trong nước tiểu vẫn âm tính). Mặt khác, giá trị tiêu chuẩn để chẩn đoán bệnh tiểu đường khi đói là 126 mg/dL. Nói cách khác, ngay cả khi đó là chỉ số đường huyết được chẩn đoán là bệnh tiểu đường, nó sẽ bị bỏ qua trong việc đo lượng đường trong nước tiểu khi đói.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đầu tiên nên thực hiện theo phương pháp đã ghi trong sách hướng dẫn. Một số điểm nhầm lẫn phổ biến khi đo lượng đường trong nước tiểu là đổ nước tiểu trực tiếp vào giấy thử, hộp đựng nước tiểu không sạch (hoặc chất tẩy rửa vẫn còn), giấy thử được ngâm lâu mà không lấy ra ngay, thời gian cho đến khi xác nhận màu sắc giấy thử không chính xác.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Tên của bệnh tiểu đường là một cái tên được đặt dựa trên thực tế là nước tiểu có vị ngọt (đường được trộn trong nước tiểu) khi người ta chưa biết rằng bệnh tiểu đường là do tình trạng lượng đường trong máu cao “tăng đường huyết“. Mặt khác, hiện nay người ta biết rằng kết quả kiểm tra lượng đường trong nước tiểu trở nên dương tính là do lượng đường trong máu cao.

Và bệnh tiểu đường là một căn bệnh có các biến chứng đáng sợ. Số liệu thống kê đã chỉ ra rằng các biến chứng tiểu đường xảy ra ở những người có chỉ số đường huyết lúc đói là 126 mg/dL trở lên và lượng đường trong máu sau ăn là 200 mg/dL trở lên. Dựa trên những khảo sát và thống kê đó, hiện nay đã có các tiêu chuẩn chẩn đoán đối với bệnh tiểu đường và sự khác biệt liệu đường có được bài tiết trong nước tiểu hay không cũng có ích cho việc điều trị bệnh tiểu đường, nhưng không hẳn mang ý nghĩa quyết định.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh nhân chỉ có thể nắm bắt sơ lược được mức độ tăng đường huyết cao mà không nắm rõ được tình trạng tăng đường huyết nhẹ, không thể nắm bắt được tình trạng hạ đường huyết, chỉ biết được thông tin khái quát khi có biến chứng của bệnh thận hoặc rối loạn thần kinh tự trị, lượng đường trong nước tiểu khi uống vitamin C thực tế là dương tính nhưng lại cho kết quả âm tính. Đó là những điểm mà bệnh nhân cần biết khi cố gắng kiểm soát bệnh tiểu đường từ lượng đường trong nước tiểu. Tất nhiên, ngược lại, việc đo lượng đường trong nước tiểu cũng có ưu điểm là có thể đo lường dễ dàng.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nên đo lượng đường trong nước tiểu ngay sau khi ngủ dậy, các thời điểm đo thích hợp là sau khi ngủ dậy, ba lần trước và hai giờ bữa ăn, trước khi đi ngủ.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Khi bệnh nhân muốn xác nhận xem có phải bị bệnh tiểu đường không hay khi bệnh nhân muốn kiểm soát đường huyết tốt hơn thì sẽ tiến hành đánh giá từ kết quả đo đường trong nước tiểu khoảng 2 giờ sau bữa ăn. Thông thường chỉ số đường huyết sẽ cao nhất trong khoảng thời gian đó, vì vậy nếu kết quả kiểm tra lượng đường trong nước tiểu là âm tính vào thời điểm đó, khả năng mắc bệnh tiểu đường có thể được cho là thấp và dù bị bệnh tiểu đường thì có thể xác định rằng việc kiểm soát đường huyết đã được thực hiện tốt.

Tuy nhiên, khi đo lượng đường trong nước tiểu, người bệnh phải đi vệ sinh ngay trước hoặc ngay sau bữa ăn và làm rỗng bàng quang. Nếu không thực hiện theo như vậy, nước tiểu được tạo ra tại thời điểm khi chỉ số đường huyết trước bữa ăn thấp và nước tiểu được tạo ra tại thời điểm chỉ số đường huyết tăng cao sau bữa ăn sẽ trộn lẫn trong bàng quang, và trên thực tế bệnh nhân có thể không nhận biết rõ được tình trạng tăng đường huyết sau ăn.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Kết quả đo lượng đường trong nước tiểu ngay sau khi ngủ dậy sẽ phản ánh lượng đường trong nước tiểu được tạo ra trong khoảng thời gian ngủ. Nếu đi vệ sinh trước khi đi ngủ và phát hiện có đường trong nước tiểu ngay sau khi ngủ dậy thì có thể dự đoán đường huyết tăng cao về đêm và việc điều trị bệnh tiểu đường chưa được thực hiện tốt.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Thông thường, khoảng thời gian trước khi ăn sáng là thời điểm mà chỉ số đường huyết thấp nhất trong ngày. Nếu đi vệ sinh 1 lần sau khi thức dậy và kết quả đo lượng đường trong nước tiểu trước khi ăn sáng là dương tính thì có thể cho thấy rằng việc kiểm soát đường huyết chưa được thực hiện tốt. Hãy tham khảo ý kiến bác sĩ để tìm ra nguyên nhân và xem xét lại phương pháp điều trị bệnh tiểu đường.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Protein niệu thường là âm tính. Khi biến chứng bệnh thận tiểu đường tiến triển đến một mức độ nào đó, protein sẽ bị lẫn trong nước tiểu. Đối với các bệnh thận nói chung bao gồm bệnh thận tiểu đường, lượng protein trộn trong nước tiểu là một chỉ số quan trọng để biết tình trạng của bệnh.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Thật không may, không thể phát hiện bệnh thận ở giai đoạn đầu bằng cách đo protein niệu bằng giấy thử. Cần thực hiện một xét nghiệm gọi là xét nghiệm microalbumin niệu để có thể phát hiện một lượng protein rất nhỏ trong nước tiểu.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Thể ketone là những chất được tạo ra do sử dụng chất béo làm nguồn năng lượng khi hoạt động của insulin không đủ và năng lượng không thể được tạo ra từ glucose, thể ketone có trong nước tiểu và máu. Nếu lượng thể ketone trong cơ thể trở nên quá nhiều có thể gây tình trạng nguy hiểm như hôn mê do cetoacidosis, vì vậy bệnh nhân tiểu đường cần chú ý cẩn thận.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Khi bệnh nhân tiểu đường tuýp 1– bệnh do thiếu hoàn toàn hoạt động của insulin có tình trạng bệnh không tốt hoặc khi tình trạng tăng đường huyết vẫn liên tục kéo dài, bệnh nhân cần đặc biệt chú ý đến sự xuất hiện của thể ketone trong nước tiểu. Nếu kết quả đo liên tục là dương tính, bệnh nhân nên tiếp nhận kiểm tra y tế sớm.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh tiểu đường là một căn bệnh với những biến chứng đáng sợ. Phần lớn các biến chứng khởi phát từ tổn thương ở các mạch máu nhỏ (vi mạch). Nguyên nhân lớn nhất gây tổn thương vi mạch ở bệnh nhân tiểu đường là do tình trạng tăng đường huyết, tuy nhiên ảnh hưởng của hiện tượng tăng huyết áp cũng không nhỏ. Duy trì chỉ số đường huyết ở mức bình thường nhất có thể và kiểm soát huyết áp ở mức thấp hơn là chìa khóa để giảm nguy cơ bị biến chứng bệnh tiểu đường.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Vì huyết áp thay đổi liên tục từ thời điểm này đến thời điểm khác nên bệnh nhân tiểu đường có thể thu được nhiều thông tin hơn bằng cách tự đo huyết áp tại nhà thay vì chỉ đo khi đến khám định kỳ tại bệnh viện. Việc tự đo huyết áp sẽ mang lại lợi ích lớn trong việc quản lý huyết áp phù hợp hơn. Ngoài ra, việc tự đo huyết áp sẽ khuyến khích việc điều trị bệnh tiểu đường.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Điều quan trọng là bệnh nhân tiểu đường phải thực hiện đúng phương pháp đo, không nên tự ý tăng lượng thuốc mà không được phép vì đó có thể là nguyên nhân làm tăng huyết áp và ngược lại. Nếu bệnh nhân có lo lắng về việc huyết áp tăng quá cao, hãy tham khảo ý kiến ​​bác sĩ và làm theo hướng dẫn.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh nhân tiểu đường nên thư giãn, thả lỏng ít nhất 5 phút trước khi đo và ngồi lên ghế để đo. Ngoài ra, hãy chắc chắn đọc kỹ hướng dẫn sử dụng vì bệnh nhân không thể đo đường huyết chính xác nếu cách quấn dây đeo (vị trí, độ lỏng chặt của vòng quấn,…) không đúng. Ngồi yên trong quá trình đo, nếu có thể nên đo ba lần liên tiếp và ghi lại giá trị trung bình thứ hai và thứ ba (vì kết quả đầu tiên thường là kết quả cao hơn).

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh nhân tiểu đường nên đo tổng cộng 2 lần một ngày, một lần trước khi đi ngủ và một lần trong khoảng thời gian từ lúc đi về sinh sau khi ngủ dậy đến trước khi ăn sáng. Tất nhiên, không giống như đo lượng đường trong nước tiểu và đo đường huyết cần giấy xét nghiệm, huyết áp có thể được đo bất cứ lúc nào, do đó, bệnh nhân có thể đo huyết áp thường xuyên hơn cũng không có vấn đề gì.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Có những thiết bị có thể đo huyết áp bằng cổ tay hoặc đầu ngón tay, nhưng về độ tin cậy, bệnh nhân tiểu đường được khuyên nên chọn thiết bị đo huyết áp trên phần bắp tay. Trên thị trường cũng có những loại máy đo huyết áp có thể in kết quả đo lường hay kết nối với máy tính để quản lý dữ liệu về kết quả đo, tuy nhiên nếu mua loại thiết bị đo huyết áp có nhiều tính năng hiện đại, người dùng sẽ mất nhiều thời gian để có thể làm quen và việc đo có thể không được duy trì. Hãy kiểm tra chức năng và giá cả của các loại thiết bị để chọn loại phù hợp với bản thân.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Trong phòng khám của bệnh viện, vì xung quanh bệnh nhân tiểu đường có rất nhiều các bác sĩ, y tá,…,huyết áp có thể cao hơn huyết áp đo được ở nhà do lo lắng, hiện tượng này được gọi là tăng huyết áp áo choàng trắng. Đặc biệt ở lần khám đầu tiên, huyết áp có xu hướng cao và khi số lần đến bệnh viện nhiều hơn, sự khác biệt so với huyết áp đo tại nhà sẽ nhỏ hơn một chút.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh nhân không thể ngăn ngừa các biến chứng của bệnh tiểu đường chỉ bằng cách kiểm tra thông thường từng ngày. Bệnh nhân cần duy trì kiểm tra để phản ánh kết quả trong điều trị. Để làm như vậy, điều quan trọng là ghi lại kết quả kiểm tra mỗi ngày và báo cho bác sĩ tại thời điểm thăm khám bệnh.

Nếu bệnh nhân tiểu đường thực hiện mỗi ngày thì sẽ trở nên nhạy bén hơn với những thay đổi trong tình trạng thể chất của mình và có thể phát hiện những chuyển biến bệnh mới ở giai đoạn đầu. Bên cạnh đó, có một lợi thế trong việc duy trì tự kiểm tra là bệnh nhân có thể xác nhận hiệu quả nhất định của chế độ ăn uống, tập luyện điều trị và phương pháp điều trị bằng thuốc. Đặc biệt, việc tự đo đường huyết sẽ cho thấy rõ rằng những ưu nhược điểm của việc điều trị hàng ngày. Những kết quả đo lường này phải là một động lực mới để thúc đẩy bệnh nhân tiếp tục điều trị.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Từ “sick” có nghĩa là ốm, bị bệnh, từ “day” có nghĩa là ngày. Nói cách khác, “sick day” có nghĩa là ngày bị ốm, ngày bị bệnh khác ngoài bệnh tiểu đường.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Những hiện tượng dưới đây có nhiều khả năng xảy ra ở bệnh nhân tiểu đường trong ngày “sick day” nên ngay cả những người có thể kiểm soát mức đường huyết bình thường, trong những ngày này cũng cần biện pháp đối phó thích hợp. Người ta gọi các biện pháp đối phó này là “sick day rule”.

(1) Chỉ số đường huyết trở nên dễ bị xáo trộn (đặc biệt là bệnh nhân có xu hướng bị tăng đường huyết)

(2) Bệnh khác ngoài bệnh tiểu đường thường lâu khỏi hơn

(3) Nguy cơ nhiễm ketoacidosis cao

(4) Hôn mê tăng thẩm thấu

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Thường là các bệnh truyền nhiễm như cảm lạnh, cúm, viêm phổi, túi mật, viêm bàng quang, tiêu chảy và nôn mửa. Ngoài ra, cần cẩn thận khi bị thương, bị bỏng, hoặc khi điều trị nha khoa. Việc có thể để vượt qua ngày “sick day” một cách tốt đẹp trong một khoảng thời gian ngắn là một điểm chính ảnh hưởng đến việc điều trị bệnh tiểu đường cũng như phòng ngừa và đối phó với tình trạng hạ đường huyết.

https://kienthuctieuduong.vn

 

Chia sẻ

Khi bị tăng đường huyết, sức đề kháng của cơ thể giảm xuống. Do đó, sự phục hồi của bệnh có thể bị trì hoãn hoặc tình trạng nhiễm trùng có thể xảy ra trước khi lành bệnh, và bệnh thường có xu hướng kéo dài lâu khỏi hơn. Ngoài ra, tình trạng mất nước do tăng đường huyết cũng ảnh hưởng làm lượng đường trong máu tăng cao hơn.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh tiểu đường là một căn bệnh mà “hiệu quả của insulin bị suy giảm và không hiệu quả”. Và hiệu quả của insulin giảm hơn nữa trong ngày bị bệnh khác ngoài bệnh tiểu đường. Nói cách khác, vào ngày “sick day”, mức độ của bệnh tiểu đường tạm thời trở nên nghiêm trong hơn.

Insulin là một hormone thiết yếu giúp chuyển hóa glucose thành năng lượng, do đó, nó sẽ không thể tạo ra năng lượng khi hiệu quả hoạt động thấp hơn bình thường do bị bệnh khác ngoài bệnh tiểu đường. Vì vậy, cơ thể tạo ra năng lượng thiết yếu cho các hoạt động sống chủ yếu bằng cách phân giải chất béo. Khi tạo ra năng lượng từ chất béo, một chất hóa học gọi là thể ketone được tạo ra. Thể ketone dần dần sẽ được bài tiết qua nước tiểu, nhưng nếu số lượng thể ketone tăng quá nhiều, nó sẽ tích tụ trong máu và tình trạng này gọi là ketosis. Vì thể ketone là một chất có tính axit, máu ban đầu có tính kiềm yếu sẽ dần trở nên có tính axit. Tình trạng này được gọi là nhiễm ketoacidosis.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Khi bị tình trạng ketosis sẽ có các triệu chứng như buồn nôn, đau bụng,…,nhưng các triệu chứng này có thể bị nhầm lẫn với các triệu chứng gây ra khi bị bệnh khác ngoài bệnh tiểu đường (sick day) và bệnh nhân có thể không nhận thấy tình trạng ketosis. Khi tình trạng ketosis tiến triển thành nhiễm ketoacidosis, bệnh nhân tiểu đường sẽ trong tình trạng nguy hiểm cần điều trị khẩn cấp như rối loạn ý thức và hôn mê.

Trong tình trạng ketosis và nhiễm ketoacidosis, hơi thở (hơi thở ra) có thể có mùi acetone, mùi giống như trái cây ngay trước khi bị thối hỏng. Acetone là một loại thể ketone, vì nó có tính chất dễ bay hơi nên sẽ lẫn với thở ra và đi ra khỏi cơ thể. Nếu bệnh nhân tiểu đường cảm thấy mùi acetone từ hơi thở ra thì có khả năng bị nhiễm ketoacidosis, vì vậy hãy đi khám và điều trị ngay lập tức.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Những người mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 bị mất khả năng tự bài tiết insulin cần chú ý. Những người mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 sẽ không bị nhiễm ketoacidosis vì khả năng tự bài tiết insulin không bao giờ mất ngay cả trong ngày bị bệnh khác ngoài bệnh tiểu đường, tuy nhiên bệnh nhân tiểu đường đang điều trị bằng insulin nếu gián đoạn việc tiêm insulin thì tình trạng nhiễm ketoacidosis sẽ có thể xuất hiện.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Tăng đường huyết làm mất lượng nước trong cơ thể, chỉ số đường huyết tăng cao, tình trạng mất nước và tăng đường huyết cũng được tăng tốc, áp suất thẩm thấu máu tăng đáng kể và dẫn đến hôn mê.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Hôn mê tăng thẩm thấu cao thường xảy ra ở người cao tuổi mắc bệnh tiểu đường tuýp 2. Điều này là bởi người cao tuổi thường khó cảm nhận cảm giác khô cổ họng và lượng nước trong cơ thể đang giảm.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Có các triệu chứng khát nước vì mất nước, nhưng người cao tuổi thường không nhận ra triệu chứng này.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nên tham khảo ý kiến bác sĩ để nhân hướng dẫn về các biện pháp cần chú ý khi bị bệnh khác ngoài bệnh tiểu đường. Các điểm cần chú ý là (1) tự nắm bắt tình trạng bệnh của bản thân, (2) giữ ấm cơ thể, duy trì bổ sung nước và carbohydrate, (3) thử giảm lượng thuốc điều trị.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh nhân nên đo nhiệt độ cơ thể, đường huyết (hoặc đường trong nước tiểu), thể ketone trong nước tiểu (hoặc máu), nhịp tim, cân nặng, chế độ ăn uống,…và ghi lại kết quả đo nếu có thể.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Các biện pháp đối phó sẽ khác nhau đối với mỗi bệnh nhân tùy thuộc vào phương pháp điều trị bệnh tiểu đường. Vì vậy, bệnh nhân nên chủ động liên lạc với bác sĩ khi thấy các chỉ số kiểm tra bất thường. Trước hết, bệnh nhân nên gặp bác sĩ ngay lập tức nếu có các tình trạng sau đây:

+ Tăng đường huyết đáng kể (khoảng 350 mg/dL trở lên)

+ Chỉ số đường huyết không giảm từ khoảng 250 mg/dL

+ Thân nhiệt trên 39 độ

+ Sốt trên 38 độ kéo dài

+ Thể ketone trong nước tiểu dương tính mạnh

+ Thể ketone dương tính liên tục

+ Không thể ăn cả bữa.

+ Các triệu chứng như đau tức ngực và khó thở, tiêu chảy, buồn nôn kéo dài liên tục

+ Các triệu chứng bệnh dần dần trở nên tồi tệ hơn

+ Không thể thấy dấu hiệu cải thiện bệnh

Ngoài ra, tại thời điểm khám bệnh, nếu có ghi chú gì trong quá trình điều trị bệnh, hãy mang theo.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Trong trường hợp như vậy, bệnh nhân tiểu đường hãy đến một cơ sở y tế gần nhà.

Bệnh nhân cần chú ý đến ba điểm sau đây khi đến khám, điều trị bệnh khác ngoài bệnh tiểu đường tại một tổ chức y tế khác

(1) Nói với bác sĩ tại cơ sở y tế đó về bệnh tiểu đường của bản thân.

(2) Nói về loại và số lượng thuốc điều trị đang sử dụng. Nếu không biết tên thuốc, nên đem theo thuốc đang sử dụng.

(3) Nếu có sổ y tế về bệnh tiểu đường, hãy cho bác sĩ tại cơ sở y tế này xem.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh tiểu đường là bệnh cần xem xét kỹ về chỉ số đường huyết, và cũng cần cẩn thận về tình trạng nhiễm trùng (người bệnh dễ bị nhiễm trùng hơn khi bị tăng đường huyết). Ngoài ra, một số loại thuốc điều trị các bệnh khác ngoài bệnh tiểu đường có tác dụng phụ làm tăng mức đường huyết, vì vậy nếu bác sĩ không biết rằng bệnh nhân bị bệnh tiểu đường, có thể chỉ định loại thuốc như vậy.

Chắc chắn khi đến khám, điều trị bệnh khác ngoài bệnh tiểu đường, các bác sĩ, y tá sẽ luôn hỏi bệnh nhân liệu có bị bệnh đặc biệt nào cần chú ý không, tuy nhiên bệnh nhân cũng cần luôn nhớ nói về tình trạng bệnh của mình.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nếu nhận thấy tình trạng bệnh không quá nguy hiểm, bệnh nhân nên cố gắng giữ ấm cơ thể và bổ sung đủ nước và carbohydrate. Bằng cách làm như vậy, bệnh nhân có thể phòng ngừa sự suy giảm sức đề kháng do bệnh tật.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Ngay cả ở những người không bị tiểu đường, các chức năng của cơ thể sẽ dần suy giảm theo tuổi tác và sẽ trở thành nguyên nhân gây ra các bệnh lớn bất ngờ. Những người mắc bệnh tiểu đường thường dễ có những biến đổi lớn trong tình trạng thể chất của họ, đặc biệt là ở người cao tuổi. Ngoài ra, khi chúng ta già đi, các biến chứng của bệnh tiểu đường và các bệnh khác ngoài bệnh tiểu đường sẽ tăng lên, vì vậy cần phải điều trị kỹ càng, cẩn thận đối với bệnh nhân cao tuổi.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Người cao tuổi thường nói đến những người trên 65 tuổi. Tuy nhiên, không thể nói rõ rằng “bao nhiêu tuổi thì cần sự chú ý đặc biệt”. So với những người ở độ tuổi 40 hoặc 50, một trong những đặc điểm của người cao tuổi là ngay cả ở những người cùng độ tuổi cũng có sự khác biệt cá nhân lớn về thể lực và tình trạng bệnh. Do đó cần phải tiến hành các phương pháp điều trị riêng lẻ theo sự khác biệt về sức mạnh thể chất và tình trạng bệnh của mỗi bệnh nhân cao tuổi. Do sự già hóa của dân số, sự gia tăng số lượng bệnh nhân tiểu đường và sự tiến bộ trong điều trị bệnh tiểu đường, số bệnh nhân duy trì tuổi thọ trong khi mắc bệnh tiểu đường ngày càng tăng, sự khác biệt về thể lực và tình trạng bệnh ở bệnh nhân tiểu đường cao tuổi sẽ ngày càng lớn.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đầu tiên, có thể nói rằng thời gian bị bệnh tiểu đường (thời gian từ khi bắt đầu bệnh tiểu đường đến hiện tại) ở mỗi bệnh nhân là khác nhau. Những người mắc bệnh ở tuổi 60 đến năm 65 tuổi là khoảng 5 năm bị bệnh, vì vậy có thể nói rằng họ không quá quan tâm đến các biến chứng mãn tính của bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, trong trường hợp một người mắc bệnh ở tuổi 40, tính đến năm 65 tuổi là đã qua 25 năm bị bệnh và tần suất các biến chứng xuất hiện sẽ nhiều hơn.

Ngoài ra, bất kể đó có phải là bệnh tiểu đường hay không, sự khác biệt về thể chất sẽ trở nên lớn hơn khi già đi. Nói một cách đơn giản, trong khi một số người sống trẻ hơn so với tuổi thực tế thì ngược lại có những người trông già hơn so với tuổi thật của do họ thường bị bệnh tật.

https://kienthuctieuduong.vn

 

Chia sẻ

Một số điểm cần chú ý trong điều trị bệnh tiểu đường ở người cao tuổi.

◇ Về tăng đường huyết

+ Các triệu chứng của tăng đường huyết rất khó xuất hiện

+ Đường nước tiểu có thể không xuất hiện ngay cả khi bị tăng đường huyết

◇ Về chế độ ăn uống

+ Ngay cả khi được chẩn đoán là bệnh tiểu đường, người cao tuổi thường khó thay đổi lối sống như chế độ ăn uống,…quen thuộc trong nhiều năm

+ Sự thèm ăn giảm và đôi khi thiếu dinh dưỡng

◇ Về chế độ tập luyện

+ Có thể khó tập thể dục trị liệu đầy đủ do đau khớp.

+ Tai nạn có khả năng xảy ra trong quá trình tập luyện, vì vậy hãy cẩn thận

Điều trị bằng thuốc

+ Quên uống thuốc, dễ uống nhầm thuốc

+ Thuốc chuyển hóa chậm, cần chú ý tùy thuộc vào cách sử dụng thuốc

+ Ngay cả trong trường hợp bắt buộc phải điều trị bằng insulin, có những trường hợp bệnh nhân không thể nhớ cách tiêm, không thể tự tiêm một mình do suy giảm thị lực, run tay,…

◇ Về hạ đường huyết

+ Triệu chứng cơ năng của hạ đường huyết rất khó xuất hiện

+ Có xu hướng bị ngã và gãy xương tại thời điểm co giật hạ đường huyết

◇ Về các biến chứng mạn tính và các bệnh đồng khởi phát

+ Thường bị biến chứng tiểu đường.

+ Thường bị những bệnh phức tạp khác ngoài bệnh tiểu đường và đôi khi bệnh nhân không nhận thấy

◇ Về các biến chứng cấp tính

+ Do biến chứng cấp tính và các bệnh viêm nhiễm,…tình trạng cơ thể có khả năng thay đổi đột ngột

+ Đặc biệt, cần chú ý đến đột quỵ do mất nước và hôn mê do tăng áp lực thẩm thấu

◇ Về mục tiêu điều trị

+ Xem xét tuổi tác và thời gian mắc bệnh, cần đặt ra các mục tiêu điều trị riêng theo tình trạng y tế của từng bệnh nhân

◇ Khác

+ Bệnh nhân cao tuổi cần có thời gian để ghi nhớ thông tin cần thiết cho việc điều trị và động lực để ghi nhớ chúng có thể thấp

+ Có những trường hợp cả bệnh nhân và những người xung quanh (gia đình, v.v.) coi những vấn đề xảy ra với bệnh nhân là do tuổi già

+ Có nhiều trường hợp bệnh nhân cao tuổi cần sự hỗ trợ của gia đình do những khuyết tật về cơ thể.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Cần xem xét mối quan hệ giữa tuổi tác, thời gian mắc bệnh tiểu đường và chất lượng cuộc sống (QOL).

Càng lớn tuổi, mọi người thường có ý nghĩ tuổi thọ còn ngắn, do đó, ý nghĩa của việc kiểm soát đường huyết nghiêm ngặt nhằm ngăn ngừa các biến chứng mãn tính của bệnh tiểu đường thường mất thời gian dài để phát triển thường không quá lớn. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân cao tuổi bị tiểu đường khi còn trẻ và có thời gian mắc bệnh lâu, khả năng biến chứng xảy ra sẽ cao hơn, vì vậy bệnh nhân sẽ cần đặt ra các mục tiêu điều trị nghiêm ngặt hơn.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

QOL (quality of life) được dịch là “chất lượng cuộc sống”. Ý nghĩa của từ này có thể khác nhau một chút tùy thuộc vào cách sử dụng. Nói rộng ra, QOL không chỉ nói đến vấn đề thể chất như “bản thân có thể tự làm mọi thứ mà không gặp vấn đề về thể chất và có thể sống mà không gặp bất tiện” mà còn nói đến các vấn đề tinh thần như “bản thân có thể sống để cảm nhận niềm vui khi sống và tận hưởng cuộc sống”.

Trong điều trị bệnh tiểu đường ở người cao tuổi, việc điều trị sẽ được thực hiện chú trọng vào QOL hơn là phòng ngừa các biến chứng mãn tính có thể xảy ra sau 10 hoặc 20 năm.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nếu bệnh nhân tiểu đường cao tuổi không hiểu đầy đủ sự cần thiết của việc điều trị và thực hiện chế ăn uống, tập luyện, dùng thuốc để kiểm soát đường huyết nghiêm ngặt giống như bệnh nhân tiểu đường chưa cao tuổi thì sẽ thường dẫn đến giảm QOL. Và điều quan trọng nhất bệnh nhân tiểu đường cao tuổi cần lưu ý là tình trạng hạ đường huyết. Vì các triệu chứng hạ đường huyết ở người cao tuổi thường không rõ ràng, bệnh nhân có thể không nhận thức được vì tuổi cao dẫn đến suy giảm QOL, gãy xương do ngã và lượng đường trong máu hạ thấp nghiêm trọng. Do đó, trong điều trị bằng thuốc cho bệnh nhân tiểu đường cao tuổi, nên chú ý đến tình trạng hạ đường huyết.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh nhân tiểu đường cao tuổi cần có sự hỗ trợ của gia đình vì bệnh nhân thường có tổn thương về thể chất. Việc chuẩn bị chế độ ăn uống, kiểm tra xem bệnh nhân đã uống thuốc chưa, có bị chấn thương ở chân không, tiêm insulinđo lượng đường trong máu,…đều cần sự hỗ trợ từ người thân bệnh nhân. Sự hợp tác của các thành viên trong gia đình (hoặc cộng đồng) thường ảnh hưởng đến cuộc sống điều trị bệnh tiểu đường của bệnh nhân. Bản thân bệnh nhân, cũng như những người xung quanh, nên cùng nhau nỗ lực điều trị mà không từ bỏ với lý do là tuổi già.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Các tên gọi “bệnh tiểu đường ở người lớn (tiểu đường ở người trưởng thành)” và “bệnh tiểu đường ở trẻ em (tiểu đường ở trẻ em và thanh thiếu niên)” không phải là tên để phân loại các loại bệnh tiểu đường. Tuy nhiên bệnh tiểu đường ở người lớn và bệnh tiểu đường ở trẻ em sẽ có những điểm khác nhau nhất định.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Không có sai lầm khi nghĩ như vậy. Nhưng tất nhiên, bệnh tiểu đường ở người trưởng thành bao gồm những người mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 khi còn nhỏ rồi lớn lên cùng bệnh và những người mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 sau khi trưởng thành.

Mặt khác, bệnh tiểu đường tuýp 2 là một bệnh liên quan đến lối sống và hiện nay bệnh này đang dần gia tăng ở trẻ tiểu học, trẻ trung học. Vì lý do này, hiện nay không thể nói rằng bệnh tiểu đường của trẻ em là bệnh tiểu đường tuýp 1. Tuy nhiên, nếu trẻ sơ sinh và trẻ tiểu học học lớp thấp hơn, khả năng mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 là không thể.

Ngoài bệnh tiểu đường tuýp 1 và tiểu đường tuýp 2, còn có một phân loại dựa trên “cơ chế khởi phát và tình trạng bệnh khác”, trong số loại bệnh tiểu đường được phân loại như vậy cũng có bệnh tiểu đường ở trẻ em và thanh thiếu niên.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh tiểu đường do cơ chế khởi phát và tình trạng bệnh khác là những trường hợp lượng đường trong máu cao do tác dụng của thuốc dùng để điều trị bệnh khác (một loại bệnh tiểu đường thứ phát) và bệnh tiểu đường do bất thường di truyền. Cho đến nay, mọi người đã biết đến bệnh tiểu đường do bất thường trong yếu tố di truyền về insulin, thụ thể insulin, ty thể và bệnh tiểu đường ở người trưởng thành khởi phát ở tuổi vị thành niên được gọi là MODY. Khi tiến hành nghiên cứu di truyền, người ta cho rằng nhiều bệnh nhân tiểu đường rơi vào những loại này.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh tiểu đường tuýp 1 không bao giờ chuyển thành bệnh tiểu đường tuýp 2. Tuy nhiên, tại một số thời điểm sau khi khởi phát bệnh tiểu đường tuýp 1, nhu cầu tiêm insulin dần giảm đáng kể nên nhiều bệnh nhân nghĩ rằng có vẻ như bệnh đã chuyển sang tiểu đường tuýp 2 hoặc nghĩ rằng bệnh đã được chữa khỏi. Đây được gọi là thời gian thuyên giảm (honeymoonperiod) của bệnh tiểu đường tuýp 1 và không phải là kết quả của việc thay đổi loại bệnh tiểu đường từ tuýp 1 sang tuýp 2. Thời gian thuyên giảm kéo dài vài tuần đến vài tháng và sau đó bệnh nhân vẫn cần điều trị tiêm insulin.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đây là trường hợp có khả năng xảy ra.

Bệnh tiểu đường tuýp 2 là một bệnh liên quan đến lối sống. Những người được di truyền thể trạng dễ mắc bệnh tiểu đường có thể bị bệnh do ăn uống quá nhiều, thiếu tập thể dục và căng thẳng tinh thần. Mặc dù chưa xác định được gen di truyền gây ra bệnh tiểu đường, nhưng trẻ em mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 cũng có xác suất bị tiểu đường tuýp 2 gần giống như những đứa trẻ khác, vì vậy nếu gánh nặng cho cơ thể do thói quen sinh hoạt bị tích lũy, trẻ bị tiểu đường tuýp 1 có thể bị đồng thời bệnh tiểu đường tuýp 2 khi trưởng thành.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Các triệu chứng của bệnh tiểu đường tuýp 2 không rõ rệt như bệnh tiểu đường tuýp 1, vì vậy bệnh nhân khó nhận thấy các triệu chứng cơ năng ngay cả khi hai loại bệnh đồng khởi phát. Tuy nhiên, lý do khiến chỉ số đường huyết tăng cao trong bệnh tiểu đường tuýp 2 cũng liên quan đến tình trạng kháng insulin (hiệu quả của insulin trở nên tồi tệ hơn), do đó, lượng tiêm insulin cần thiết tăng lên và tình trạng xơ vữa động mạch (bệnh tim và đột quỵ) dễ xảy ra. Nếu duy trì tốt việc điều trị bệnh tiểu đường tuýp 1, người ta cho rằng những vấn đề ảnh hưởng không tốt cho cơ thể như ăn quá nhiều chắc chắn sẽ không xảy ra quá thường xuyên. Nói cách khác, miễn là bệnh nhân chú trọng vào việc điều trị bệnh tiểu đường tuýp 1 thì không cần phải quá lo lắng về việc đồng khởi phát bệnh tiểu đường tuýp 2.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nếu nghĩ rằng đó là bệnh tiểu đường tuýp 2 nhưng thực sự tình trạng lại giống với bệnh tiểu đường tuýp 1, hiện tượng tương tự như câu hỏi có thể xảy ra. Đây là một loại bệnh tiểu đường được gọi là bệnh tiểu đường tuýp 1 tiến triển chậm và có xu hướng phổ biến ở người lớn hơn trẻ em. Trong một thời gian sau khi khởi phát bệnh, tình trạng bệnh giống như tiểu đường tuýp 2 (tình trạng không cần uống thuốc hay tiêm insulin, hoặc ngay cả khi điều trị bằng thuốc là cần thiết nhưng không cần bắt buộc điều trị để duy trì sự sống mà cần duy trì kiểm soát đường huyết). Sau đó, lượng bài tiết insulin giảm dần, cuối cùng bệnh trở thành tình trạng phụ thuộc vào insulin (tình trạng bắt buộc phải điều trị bằng insulin).

https://kienthuctieuduong.vn

 

Chia sẻ

Bệnh tiểu đường là một bệnh phổ biến ở người lớn, trong khi bệnh tiểu đường ở trẻ em (tuýp 1 hoặc tuýp 2) là một bệnh hiếm gặp với một số ít bệnh nhân, đây là một sự khác biệt lớn được nhắc đến đầu tiên. Và việc điều trị phải được thực hiện bởi một chuyên gia bệnh tiểu đường (đặc biệt là một bác sĩ hiểu rõ về bệnh tiểu đường ở trẻ em).

Các yếu tố khởi phát bệnh là sự khác biệt lớn giữa bệnh tiểu đường tuýp 1 và tuýp 2. Do đó, liệu pháp insulin là rất cần thiết cho bệnh tiểu đường tuýp 1 và phương pháp cải thiện lối sống như chế độ ăn uốngchế độ tập luyện là phương pháp điều trị cơ bản cho bệnh tiểu đường tuýp 2.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Tại Nhật Bản, tỷ lệ trẻ em dưới 15 tuổi mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 là 1.5~2 người trong 100.000 người mỗi năm. Con số này là rất ít so với thế giới. Ví dụ, tỷ lệ trẻ em mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 ở Phần Lan tăng lên hơn 36 người trong 100.000 người mỗi năm. Vì ở Nhật Bản có rất ít trẻ em mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 nên có một vấn đề là thông tin về điều trị bệnh khó được lan truyền rộng rãi và sự hiểu biết về căn bệnh này trong toàn xã hội còn thấp.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Sự khác biệt về chủng tộc được coi là nguyên nhân quan trọng nhất. Có nhiều bệnh khác ngoài bệnh tiểu đường và có sự khác biệt về chủng tộc ở tỷ lệ khởi phát bệnh. Khi nói đến bệnh tiểu đường tuýp 1 ở trẻ em, có xu hướng có nhiều bệnh nhân người da trắng và ít bệnh nhân người da màu, nhiều bệnh nhân ở khu vực vĩ độ cao và ít bệnh nhân ở khu vực vĩ độ thấp.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Có một giới hạn về độ tuổi khởi phát bệnh tiểu đường ở trẻ em là từ khoảng trước sau 10 tuổi đến tuổi thiếu niên, nhưng bệnh tiểu đường cũng có thể khởi phát ở mọi lứa tuổi mà không có giới hạn.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Thật không may, do nguyên nhân của bệnh tiểu đường tuýp 1 là các tế bào beta tiết ra insulin bị phá vỡ nên rất khó để điều trị khỏi bệnh ngay cả khi bệnh được phát hiện sớm. Tuy nhiên, trong trường hợp bệnh tiểu đường tuýp 1 loại tiến triển chậm, người ta chỉ ra rằng nếu điều trị bằng insulin được bắt đầu sớm sau khi bệnh khởi phát, lượng tiêm insulin để điều trị có thể giảm trong một thời gian dài.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đúng là như vậy. Tuy nhiên, y học gần đây đang ngày càng tiến bộ nhanh chóng và cũng có những trường hợp bệnh tiểu đường gần như được chữa khỏi hoàn toàn, chẳng hạn như cấy ghép tiểu đảo (cấy các tiểu đảo Langerhans trong tuyến tụy có chứa tế bào beta tiết ra insulin). Hiện tại, trẻ em mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 (hoặc người trẻ tuổi) có thể không cần khẳng định rằng đây là “một căn bệnh không thể chữa khỏi suốt đời”. Nói cách khác, có khả năng một phương pháp chữa trị hoàn toàn bệnh tiểu đường tuýp 1 có thể xuất hiện khi bạn còn sống.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nếu trẻ bị tăng đường huyết nghiêm trọng hoặc bị nhiễm toan ceton, nếu trẻ bị hôn mê, cần phải cho trẻ nhập viện để được cấp cứu và điều trị tích cực. Trẻ sẽ ở lại bệnh viện cho đến khi cải thiện được tình trạng nguy hiểm và học cách tiêm insulinđo lượng đường trong máu cùng với gia đình cũng như tìm hiểu kiến thức về bệnh tiểu đường tuýp 1. Ngoài ra, trẻ có thể bắt đầu điều trị ngoại trú mà không cần nhập viện trong trường hợp bệnh tiểu đường tuýp 1 được phát hiện sớm trong lần kiểm tra sức khỏe ở trường.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Có nhiều nguyên nhân vẫn chưa được hiểu rõ, nhưng cho đến nay, người ta đã chỉ ra rằng nhiều trường hợp bệnh tiểu đường tuýp 1 khởi phát là do bệnh tự miễn dịch. Bệnh tự miễn dịch là bệnh trong đó chức năng miễn dịch- hệ thống bảo vệ cơ thể khỏi vi khuẩn và vi rút xâm nhập từ bên ngoài cơ thể lại hoạt động chống lại các tế bào và mô bình thường của chính nó. Khi các tế bào tiết insulin được gọi là tế bào beta trong tuyến tụy bị tấn công bởi khả năng tự miễn dịch và mất khả năng tạo ra insulin, bệnh tiểu đường tuýp 1 sẽ phát triển.

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Vì nguyên nhân của bệnh tiểu đường tuýp 1 thường không rõ ràng nên không cụ thể rằng trẻ như thế nào có khả năng dễ bị loại bệnh này. Thống kê về tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 ở trẻ em cho thấy đây là bệnh phổ biến hơn ở trẻ gái so với trẻ nam. Ngoài ra, bệnh tiểu đường tuýp 1 còn do các yếu tố di truyền và yếu tố môi trường.

>> Xem thêm câu hỏi: Nguyên nhân của bệnh tiểu đường tuýp 1 là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 là khác nhau về chủng tộc và một số xu hướng gia đình (bệnh tiểu đường tuýp 1 phổ biến hơn ở trẻ em có gia đình đã từng bị bệnh tiểu đường tuýp 1 so với trẻ em không có gia đình đã từng bệnh tiểu đường tuýp 1). Tuy nhiên, có nhiều loại gen di truyền có liên quan và người ta loại gen nào là yếu tố nguyên nhân. Ngoài ra, điều đó không có nghĩa là căn bệnh này sẽ luôn xảy ra do yếu tố gen được di truyền, bệnh còn khởi phát do yếu tố môi trường. Ngoài ra, xác suất cha mẹ và con cái mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 thấp hơn nhiều so với khả năng cha mẹ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 và trẻ em mắc bệnh tiểu đường tuýp 2.

>> Xem thêm câu hỏi: Trẻ em như thế nào thì dễ bị tiểu đường tuýp 1?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Điều này vẫn chưa được làm rõ ràng, nhưng một trong những nguyên nhân gây ra các bệnh tự miễn là do nhiễm một số virus. Các bệnh dịch như cảm lạnh, rubella và quai bị có liên quan đến việc tăng tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 ở trẻ em bởi khi bị các bệnh nhiễm virus như vậy có thể khiến hệ thống miễn dịch tự tấn công chính tế bào β của có thể. Tuy nhiên, về mặt phân loại bệnh tiểu đường, bệnh tiểu đường do nhiễm virus không được phân loại thành bệnh tiểu đường tuýp 1 mà là các bệnh tiểu đường do cơ chế cụ thể khác.

>> Xem thêm câu hỏi: Các yếu tố di truyền liên quan đến sự khởi phát của bệnh tiểu đường tuýp 1 là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nguyên nhân của bệnh tiểu đường tuýp 1 vẫn chưa được làm rõ và có thể nói rằng đó là một căn bệnh khó phòng ngừa. Về cơ bản, mọi người đều có khả năng bị bệnh. Điểm này có thể nói là một sự khác biệt lớn với bệnh tiểu đường tuýp 2, một bệnh liên quan đến lối sống. Vì vậy, việc trẻ bị khởi phát bệnh tiểu đường tuýp 1 không phải do lỗi của cha mẹ. Ngay sau khi trẻ bị phát bệnh, cha mẹ không nên nghĩ tiêu cực và đổ lỗi cho bản thân mà nên chấp nhận tích cực bệnh tiểu đường của con mình để có phương pháp điều trị hiệu quả.

>> Xem thêm câu hỏi: Các yếu tố môi trường liên quan đến sự khởi phát của bệnh tiểu đường tuýp 1 là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Về cơ bản, nó giống như bệnh tiểu đường tuýp 2 và bệnh tiểu đường khác. Điều này có nghĩa là duy trì kiểm soát đường huyết tốt hơn và ngăn ngừa sự xuất hiện của các biến chứng do tăng đường huyết. Các mục tiêu điều trị chính của bệnh tiểu đường tuýp 1 ở trẻ em như sau.

Mục tiêu điều trị bệnh tiểu đường tuýp 1 ở trẻ em

+ Không bị tăng đường huyết hoặc nhiễm toan ceton nguy hiểm

+ Không bị hạ đường huyết nặng

+ Chiều cao của trẻ vẫn phát triển đúng theo độ tuổi

+ Cân nặng trẻ đang tăng theo độ tuổi và chiều cao

+ Trẻ có thể tự tiêm insulin

+ Trẻ có thể đo lượng đường trong máu và tự mình đối phó với tình trạng hạ đường huyết

+ Hiểu rõ mối quan hệ giữa chế độ ăn uống, tập luyện và sự thay đổi lượng đường trong máu

>> Xem thêm câu hỏi: Khi trẻ bị bệnh tiểu đường tuýp 1, có phải do cha mẹ đã chăm sóc sai cách?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bởi vì insulin cũng hoạt động như một hormone tăng trưởng, bệnh tiểu đường tuýp 1 là bệnh trong đó việc tự bài tiết insulin gần như không còn, do đó sẽ ngăn chặn sự phát triển khỏe mạnh của trẻ nếu việc điều trị bằng insulin không được thực hiện tốt. Vai trò của insulin không chỉ là làm giảm lượng đường trong máu, nó cũng góp phần vào sự tăng trưởng của trẻ.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh tiểu đường tuýp 1 là một bệnh khó chữa ngay tại thời điểm khởi phát, nhưng mục tiêu của việc duy trì điều trị là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Người ta đã chỉ ra rằng trẻ em không mắc bệnh tiểu đường cũng có trẻ cao và trẻ thấp. Vì vậy, ngay cả đối với trẻ em mắc bệnh tiểu đường, cũng có trẻ cao và trẻ thấp. Sự khác biệt về chiều cao xuất hiện ở trẻ khi điều trị bệnh tiểu đường không phải là do bệnh tiểu đường mà do sự khác biệt về gen của từng trẻ.

>> Xem thêm câu hỏi: Mục tiêu điều trị là “Chiều cao của trẻ vẫn phát triển đúng theo độ tuổi”. Có mối liên quan gì giữa bệnh tiểu đường tuýp 1 và chiều cao ở trẻ em không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Khi nói đến cân nặng, cần chú ý về cả tình trạng quá gầy và thừa cân ở trẻ. Khi tình trạng tăng đường huyết tiếp tục kéo dài do lượng tiêm insulin nhỏ, glucose không được sử dụng nên dù trẻ có ăn uống nhưng cân nặng vẫn sẽ giảm.

Mặt khác, nếu trẻ ăn và tiêm nhiều insulin để ức chế lượng đường trong máu tăng cao, trẻ sẽ dần trở nên béo hơn. Khi trẻ trở nên béo hơn, insulin hoạt động kém ở các mô ngoại biên, do đó cần nhiều insulin hơn và không chỉ bệnh tiểu đường tuýp 1 mà cả bệnh tiểu đường liên quan đến lối sống (bệnh tiểu đường tuýp 2) cũng cần chú ý.

>> Xem thêm câu hỏi: Trẻ em bị tiểu đường không thể phát triển chiều cao đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Điều trị bằng insulin là rất cần thiết vì bệnh tiểu đường tuýp 1 là tình trạng tự bài tiết insulin không còn. Ý nghĩa của liệu pháp insulin ở bệnh tiểu đường tuýp 1 hơi khác so với bệnh tiểu đường tuýp 2, trong đó biện pháp insulin được thực hiện khi chế độ ăn uống và tập thể dục đã được thực hiện nhưng kiểm soát đường huyết vẫn không cải thiện.

>> Xem thêm câu hỏi: Người ta nói rằng “cân nặng sẽ tăng theo tỷ lệ tuổi và chiều cao”, điều đó có nghĩa là cân nặng không tăng ở trẻ bị bệnh tiểu đường tuýp 1?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Cha mẹ nên nói với giáo viên rằng con mình bị tiểu đường. Ngoài ra nên nhờ cô giáo chú ý trường hợp trẻ bị hạ đường huyết, chế độ ăn uống của trẻ và cách tiêm insulin khi trẻ ở trường học.

>> Xem thêm câu hỏi: Phương pháp điều trị thực tế của bệnh tiểu đường tuýp 1 ở trẻ em là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Trẻ bị bệnh tiểu đường nên nói về bệnh tiểu đường của mình cho với càng nhiều bạn bè và bạn cùng lớp càng tốt. Tuy nhiên cũng có những điểm trẻ không biết rõ như thời gian tiêm insulin và cách đo lượng đường trong máu. Cha mẹ có thể nhờ cô giáo giới thiệu cho trẻ về bệnh tiểu đường qua sách hoặc video. Không nên quá quan tâm đến trẻ bị tiểu đường khiến trẻ cảm thấy bị phân biệt so với những bạ khác và xấu hổ hoặc trốn tránh bệnh tiểu đường.

>> Xem thêm câu hỏi: Cha mẹ có nên nói với giáo viên rằng con mình bị tiểu đường không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Có một chế độ ở Nhật Bản gọi là “Dự án nghiên cứu điều trị bệnh mãn tính ở trẻ em” và các chi phí y tế cho trẻ em dưới 18 tuổi bị tiểu đường sẽ được hỗ trợ. Có những thành phố áp dụng hệ thống này khi trẻ đến 20 tuổi. (Thông tin kể từ tháng 2 năm 2005. Hệ thống sẽ luôn được thay đổi theo thời gian).

>> Xem thêm câu hỏi: Trẻ bị bệnh tiểu đường có nên giải thích về bệnh tiểu đường của mình cho bạn bè và bạn cùng lớp không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Một số điểm lưu ý mà cha mẹ cần biết khi trẻ bị bệnh tiểu đường cụ thể như sau:

+ Không nên đối xử với đặc biệt với trẻ do trẻ bị bệnh tiểu đường tuýp 1

+ Cố gắng không can thiệp quá mức vào cuộc sống của trẻ

+ Tìm hiểu kỹ về bệnh tiểu đường theo sự phát triển của trẻ

+ Không cần phải quá nhạy cảm với sự lên xuống của chỉ số đường huyết

>> Xem thêm câu hỏi: Có chế độ hỗ trợ chi phí y tế cho bệnh tiểu đường ở trẻ nhỏ không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Tỷ lệ người mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 không cao. Tuy nhiên, mặc dù bệnh tiểu đường tuýp 1 không thể chữa khỏi hoàn toàn nhưng điều chắc chắn là đã có phương pháp điều trị hiệu quả. Sự khác biệt duy nhất giữa trẻ em mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 và những đứa trẻ khác là nhu cầu tiêm insulinđo đường huyết. Vì vậy, nên đối xử với trẻ bị tiểu đường như một đứa trẻ khỏe mạnh bình thường, trừ khi cần thiết phải kiểm soát lượng đường trong máu.

>> Xem thêm câu hỏi: Ngoài ra có những lời khuyên nào khác về bệnh tiểu đường tuýp 1 ở trẻ em không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Dù đã có những phương pháp điều trị hiệu quả đối với bệnh tiểu đường ở trẻ em nhưng nếu cha mẹ quan tâm quá mức đến trẻ bị bệnh tiểu đường thì sẽ tạo gánh nặng cho trẻ. Mặc dù đối với trẻ tiểu học bị tiểu đường, sự quan tâm của phụ huynh vẫn rất cần thiết, nhưng đối với trẻ trung học cơ sở và trung học phổ thông bị tiểu đường, cha mẹ nên đặt một khoảng cách nhất định trong việc quan tâm, chăm sóc trẻ. Nếu cha mẹ không đối xử quá đặc biệt với trẻ bị tiểu đường, trẻ cũng có thể cảm thấy như bản thân có thể tự điều trị bệnh tiểu đường.

>> Xem thêm câu hỏi: Mặc dù nói “không nên đối xử đặc biệt với trẻ bị tiểu đường” nhưng bệnh tiểu đường tuýp 1 là một căn bệnh khá đặc biệt đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Điều gì khiến lượng đường trong máu tăng và giảm, các biến chứng tiểu đường là gì, loại thiết bị nào cần thiết để cải thiện kiểm soát lượng đường trong máu và làm thế nào để sống khỏe mạnh với bệnh tiểu đường? Những điều như này trẻ nên học và suy nghĩ dần dần khi trưởng thành. Để làm được như vậy, trẻ nên tham gia tư vấn, nói chuyện với các bác sĩ và y tá, đọc sách và tham gia vào các cuộc trao đổi giữa các bệnh nhân tiểu đường. Bằng cách trao đổi thông tin giữa những đứa trẻ mắc bệnh tiểu đường giống nhau và giữa cha mẹ, trẻ sẽ có thể nhận được nhiều lời khuyên phù hợp với cuộc sống thực tế với bệnh tiểu đường. Bằng cách đó, người ta cho rằng chính trẻ em có thể hiểu rõ “tại sao cần tiêm insulinđo lượng đường trong máu” và trẻ có thể tự duy trì kiểm soát lượng đường trong máu tốt hơn mà không cần sự can thiệp của cha mẹ.

>> Xem thêm câu hỏi: Việc “không nên đối xử đặc biệt với trẻ bị tiểu đường” có nghĩa là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Là những bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 từ học sinh trung học đến khoảng 20 tuổi. Những người bị khởi phát bệnh tiểu đường tuýp 1 khi bước vào giai đoạn này và những người đã khởi phát bệnh tiểu đường tuýp 1 từ thời thơ ấu kéo dài đến giai đoạn này.

>> Xem thêm câu hỏi: Có những phương pháp nào để trẻ “hiểu rõ về bệnh tiểu đường”?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Những người trẻ tuổi là những người đang trong thời kỳ bất ổn về tinh thần. Đồng thời đây cũng là lúc trẻ chuyển từ một cuộc sống trước đây dựa vào cha mẹ sang một cuộc sống độc lập dần dần (hoặc nhanh chóng) và những giấc mơ và kế hoạch trong tương lai của trẻ sẽ gần với thực tế hơn.

Những người trẻ tuổi thường có cảm giác lo lắng, bất an nhiều hơn khi bị bệnh tiểu đường. Có một số vấn đề xuất hiện ở thế hệ này như thay đổi cách tự quản lý bệnh tiểu đường khi rời khỏi vòng tay cha mẹ, thay đổi cuộc sống học đường, mối quan hệ với bạn bè, tình yêu…

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh tiểu đường tuýp 1 ở người trẻ tuổi đề cập đến những bệnh nhân như thế nào?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đúng như vậy, các vấn đề biến động về lối sống xảy ra ở độ tuổi này không chỉ giới hạn ở những người mắc bệnh tiểu đường mà các bệnh khác có thể ảnh hưởng đến một mức độ nào đó. Tuy nhiên, không có bệnh nào khác ngoài bệnh tiểu đường được phân loại là “bệnh ở người trẻ tuổi”.

Nói cách khác, trong trường hợp bệnh tiểu đường, hầu hết việc điều trị thực tế không phụ thuộc vào sự điều trị của bác sĩ hay y tá mà phụ thuộc vào sự tự nguyện và tự kiểm soát của bệnh nhân. Bệnh nhân cần duy trì việc tiêm insulin thường xuyên, đo lượng đường trong máu, đối phó với hạ đường huyết, suy nghĩ về chế độ ăn uống, tự kiểm soát trong những ngày bị bệnh khác ngoài bệnh tiểu đường….

Không khó để tưởng tượng rằng các vấn đề biến động về lối sống xảy ra ở độ tuổi “young” sẽ ảnh hưởng đến việc điều trị bệnh tiểu đường. Vì vậy nên có sự phân loại “Bệnh tiểu đường ở người trẻ tuổi” và coi như một thời điểm đặc biệt quan trọng trong việc sống với bệnh tiểu đường.

>> Xem thêm câu hỏi: Tại sao nên phân biệt “Bệnh tiểu đường ở người trẻ tuổi” với bệnh tiểu đường ở các thế hệ khác?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường khi là trẻ em sẽ được hướng dẫn đầy đủ phương pháp tự kiểm soát bệnh cơ bản trước khi trở thành người trẻ tuổi. Ngoài ra, trẻ em bị bệnh sẽ dễ dàng chấp nhận bản thân bị tiểu đường hơn. Về những mặt này, người bị tiểu đường khi trẻ tuổi thường phải học từ đầu kiến ​​thức và kỹ năng cần thiết để tự điều trị bệnh tiểu đường và phải chấp nhận thực tế rằng mình đã bị tiểu đường. Tuy nhiên, như một lẽ tất nhiên, những người mới trưởng thành thường ít kinh nghiệm xã hội hơn và bệnh tiểu đường thường được coi là một vấn đề rất nghiêm trọng quyết định cuộc sống của họ. Vì lý do này, những người trẻ tuổi thường phải mất rất nhiều thời gian để chấp nhận bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, hầu hết các bệnh nhân trải qua thời gian để chấp nhận bệnh tiểu đường và tìm ra cách điều trị phù hợp với cuộc sống của bản thân.

>> Xem thêm câu hỏi: Những người trong độ tuổi được gọi là “young” dù không bị bệnh tiểu đường cũng có những biến động bất thường về lối sống đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Vấn đề khó khăn của việc chấp nhận bệnh tiểu đường là vấn đề đầu tiên xuất hiện do giai đoạn đang phát triển từ trẻ em sang người lớn. Bệnh nhân tiểu đường trẻ tuổi sẽ luôn có cảm giác đứng giữa ngã tư với nhiều vấn đề ảnh hưởng đến cuộc sông sau này như muốn làm nghề gì trong tương lai, bệnh tiểu đường ảnh hưởng đến công việc như thế nào, bệnh tiểu đường ảnh hưởng đến tình yêu, hôn nhân và sinh con như thế nào…

>> Xem thêm câu hỏi: Có sự khác biệt nào giữa những người mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 khi trẻ tuổi (young) và những người mắc bệnh tiểu đường khi còn là trẻ em?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Những người trẻ tuổi không cần phải từ bỏ và thay đổi lĩnh cực muốn học và định hướng nghề nghiệp chỉ vì bản thân bị tiểu đường.

>> Xem thêm câu hỏi: Cụ thể, có vấn đề khó khăn nào đối với bệnh tiểu đường ở người trẻ tuổi?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Gần như không có vấn đề gì cần lo lắng. Nếu trẻ bị bệnh khi còn là nhỏ, trẻ hoàn toàn có thể kiểm soát lượng đường trong máu. Tuy nhiên, xin lưu ý rằng việc kiểm soát đường huyết có thể bị gián đoạn khi thói quen ăn uống thay đổi.

Ngoài ra, trường hợp người mới bị bệnh tiểu đường khi trưởng thành, họ thường chưa học được cách kiểm soát lượng đường trong máu, vì vậy sẽ có một chút lo lắng khi sống một mình. Nếu có lo lắng về việc hạ đường huyết, bệnh nhân có thể tìm bạn cùng phòng và nhờ giúp đỡ khi cần thiết.

>> Xem thêm câu hỏi: Khi chọn lựa định hướng nghề nghiệp trong tương lai, người trẻ tuổi cũng nên xem xét bệnh tiểu đường đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Không có nhiều bệnh nhân bị từ chối việc làm vì lý do là bị tiểu đường. Tuy nhiên thực tế, so với những người không mắc bệnh tiểu đường, những bệnh nhân tiểu đường có lẽ sẽ gặp một chút khó khăn khi làm việc do việc điều trị bệnh cần thực hiện đều đặn và có những hạn chế nhất định.

>> Xem thêm câu hỏi: Liệu có an toàn khi trẻ bị bệnh tiểu đường rời xa bố mẹ và bắt đầu sống một mình khi học đại học không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Một số người làm bài kiểm tra hoặc phỏng vấn khi xin việc mà không tiết lộ bệnh tiểu đường của bản thân. Điều đó sẽ ổn nếu bệnh nhân tự tin vào việc tự quản lý bệnh tiểu đường. Tuy nhiên, nếu bệnh nhân lo lắng rằng có thể làm phiền người khác nhiều hơn do bệnh tiểu đường thì tốt hơn là nên nói về bệnh tiểu đường của bản thân với nhà tuyển dụng.

Một khi có được một công việc, nên tạo mối quan hệ tốt với mọi người và có thể nói về bệnh tiểu đường của bản thân. Nên nói với mọi người rằng “Bởi vì bạn có thể tự kiểm soát lượng đường trong máu của mình nên không có vấn đề gì, nhưng trong những trường hợp hiếm hoi, có thể bị hạ đường huyết và cản trở công việc” để nhận được sự thông cảm. Nếu mọi người tại nơi làm việc có thể hiểu và thông cảm cho bệnh nhân, những rắc rối liên quan đến công việc sẽ gần như được loại bỏ. Lúc đầu, bệnh nhân tiểu đường có thể cần nhiều nỗ lực hơn những người khác.

>> Xem thêm câu hỏi: Có bất cứ điều gì phân biệt đối xử với bệnh nhân tiểu đường khi đi xin việc không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Miễn là bệnh nhân tiểu đường có thể tự kiểm soát lượng đường trong máu, gần như có thể làm mọi loại công việc. Tuy nhiên, tốt hơn hết là tránh loại công việc có thể dẫn đến tình huống khẩn cấp như chậm trễ trong việc đối phó với tình trạng hạ đường huyết như công việc ở nơi cao hoặc phi công.

>> Xem thêm câu hỏi: Khi đi xin việc, tốt hơn là nói với công ty về bệnh tiểu đường của bản thân hay nên che giấu bệnh?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh nhân tiểu đường cũng có thể trở thành một bác sĩ hoặc vận động viên. Trên thực tế, có rất nhiều bác sĩ và vận động viên bị tiểu đường tuýp 1 trên khắp thế giới. Tuy nhiên, tất nhiên họ phải mất nhiều nỗ lực hơn bất kỳ ai để thực hiện ước mơ đó.

>> Xem thêm câu hỏi: Có loại công việc nào không phù hợp với người bị bệnh tiểu đường không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Kết quả các cuộc điều tra đã chỉ ra rằng tỷ lệ kết hôn của những người trẻ tuổi mắc bệnh tiểu đường thấp hơn một chút so với những người không mắc bệnh tiểu đường. Lý do không thể dễ dàng chỉ ra, nhưng có lẽ bệnh tiểu đường là một trong những nguyên nhân.

Cách suy nghĩ về hôn nhân là khác nhau đối với mỗi người, và suy nghĩ này cũng thay đổi tùy theo thời đại. Điều quan trong là bệnh nhân tiểu đường từ trước khi yêu không nên bị ảnh hưởng bởi suy nghĩ “mình có thể kết hôn không khi bị bệnh tiểu đường?”

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh nhân tiểu đường cũng có thể trở thành một bác sĩ hoặc vận động viên đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh nhân coi bệnh tiểu đường là rào cản giữa mình và người khác có thể có xu hướng cảm thấy tiêu cực như vậy. Tuy nhiên, điều này có thể là do sự khác biệt trong cá nhân chứ không phải là “vì bệnh tiểu đường”. Nếu bệnh nhân nghĩ rằng bản thân không thể làm việc dưới bất kỳ hình thức nào vì bệnh tiểu đường, hãy nhớ lại bản thân trước khi bị tiểu đường. Khi gặp bất kỳ vấn đề hoặc tình huống nào, không cần phải kiềm chế điều gì đó chỉ vì bị bệnh tiểu đường.

>> Xem thêm câu hỏi: Còn hôn nhân thì sao? Có điều gì sẽ trì hoãn việc kết hôn của bệnh nhân tiểu đường?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Khả năng này thường không cao ở Nhật Bản. Nếu bệnh nhân tiểu đường kiểm soát tốt lượng đường trong máu và huyết áp thì có thể kết hôn đúng tuổi bình thường và thậm chí không có biến chứng sau khi kết hôn.

>> Xem thêm câu hỏi: Dường như không thể tránh khỏi việc có những bệnh nhân tiểu đường trở nên tiêu cực vì bệnh tiểu đường, không chỉ trong tình yêu và hôn nhân, mà còn trong nhiều vấn đề khác đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Cho đến một khoảng thời gian trước, mức độ điều trị bệnh tiểu đường tuýp 1 chưa thỏa đáng lắm không chỉ ở Nhật Bản mà còn trên toàn thế giới. Đó là bởi vì bệnh nhân không thể kiểm soát lượng đường trong máu do chưa xuất hiện các loại chế phẩm insulin khác nhau như hiện tại và bệnh nhân không thể tự đo đường huyết. Tại Nhật Bản, tỷ lệ bệnh tiểu đường tuýp 1 thấp và việc tự tiêm insulin đã không được phép trong một thời gian dài và thực tế việc thiết lập môi trường điều trị, điều trị bị chậm một chút so với các nước phương Tây.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh nhân tiểu đường có khả năng bị biến chứng gây cản trở đến việc hôn nhân từ giai đoạn trước độ tuổi kết hôn phù hợp không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đúng vậy. Ở Nhật Bản có “Hội của giới trẻ”, có thể được gọi là Hiệp hội bệnh nhân tiểu đường trẻ tuổi ở nhiều nơi trên cả nước.

>> Xem thêm câu hỏi: Mức độ điều trị bệnh tiểu đường tuýp 1 ở Nhật Bản trước đây rất cao đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Hội sẽ tổ chức các cuộc họp nhóm để thảo luận về các vấn đề phổ biến đối với thế hệ trẻ và thường khó giải quyết như tìm việc, nghề nghiệp, tình yêu và hôn nhân. Ngoài ra, hội cũng sẽ lên kế hoạch về bài giảng của một chuyên gia về bệnh tiểu đường, phát hành một tờ báo chính thức hoặc tổ chức trại hè cho trẻ em bị tiểu đường. Ở Nhật Bản, không có nhiều bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường trẻ tuổi, vì vậy rất khó để truyền bá thông tin hữu ích về điều trị, “hội của giới trẻ” có hiệu quả như một nơi để giải quyết vấn đề này.

>> Xem thêm câu hỏi: Ở Nhật Bản có “Hội của giới trẻ” đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh nhân tiểu đường trẻ tuổi có thể hỏi bác sĩ hoặc y tá tại cơ sở y tế đang điều trị bệnh để được hướng dẫn chi tiết.

>> Xem thêm câu hỏi: Trong “Hội của giới trẻ” có những hoạt động gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh tiểu đường tuýp 2 là một bệnh liên quan đến lối sống. Bệnh liên quan đến lối sống là một bệnh khởi phát do nền tảng di truyền dễ mắc một loại bệnh nào đó và do gánh nặng khi cao tuổi. Trước đây, người ta thường gọi bệnh này là “bệnh ở người trưởng thành”. Vì vậy, nói chung, các bệnh liên quan đến lối sống là phổ biến ở người trưởng thành (đặc biệt là người trung niên và người cao tuổi), nhưng trẻ em và người trẻ tuổi cũng có thể mắc bệnh này.

>> Xem thêm câu hỏi: Làm thế nào để bệnh nhân tiểu đường trẻ tuổi có thể tham gia Hội của giới trẻ?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đúng vậy. Tại Nhật Bản sau chiến tranh, tỷ lệ bệnh nhân tiểu đường tuýp 2 ở người trưởng thành gia tăng theo sự thay đổi của môi trường sống, cùng với đó, bệnh tiểu đường tuýp 2 ở trẻ em và những người trẻ tuổi thường không nhiều nay đã dần dần tăng lên. Hiện tại, người ta ước tính rằng có nhiều trẻ tiểu học lớp dưới bị bệnh tiểu đường tuýp 1, trẻ tiểu học lớp trên và học sinh trung học cơ sở trở lên thường bị bệnh tiểu đường tuýp 2.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh tiểu đường tuýp 2 ở trẻ em và người trẻ tuổi là bệnh như thế nào?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh tiểu đường tuýp 2 ở trẻ em và người trẻ tuổi sẽ không có triệu chứng nào hoặc thậm chí các triệu chứng nhỏ có thể bị bỏ qua trừ khi bệnh nhân hoặc gia đình quan tâm, chú ý chặt chẽ đến bệnh tiểu đường. Đây là điểm khác biệt lớn nhất với bệnh tiểu đường tuýp 1.

Bệnh nhân tiểu đường tuýp 1 có tình trạng tăng đường huyết trong một thời gian ngắn sau khi xuất hiện các triệu chứng, vì vậy các triệu chứng như khát nước, uống nhiều nước, dễ mệt mỏi, giảm cân… thường xuất hiện rõ ràng. Tuy nhiên, trong trường hợp bệnh tiểu đường tuýp 2 ở trẻ em và người trẻ tuổi, lượng tự bài tiết insulin thường vẫn được duy trì đủ, do đó không làm tăng đường huyết đến mức độ khiến các triệu chứng cơ năng xuất hiện.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh tiểu đường ở trẻ em và người trẻ tuổi không phải lúc nào cũng là bệnh tiểu đường tuýp 1 đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh tiểu đường tuýp 1 và bệnh tiểu đường tuýp 2 có những nguyên nhân khởi phát khác nhau, vì vậy ý ​​nghĩa của từ “chữa khỏi bệnh” đã thay đổi một chút. Bệnh tiểu đường tuýp 1 là một bệnh trong đó các tế bào beta trong tuyến tụy bị phá hủy và insulin không được tiết ra. Do đó, nếu có thể khôi phục chức năng của các tế bào beta (ví dụ, bằng cách cấy ghép tụy hoặc sử dụng các cơ quan tụy nhân tạo), bệnh có thể được chữa khỏi. Có thể nói rằng điều này sẽ không thể xảy ra ngay bây giờ nhưng sẽ có thể xảy ra trong tương lai.

Mặt khác, bệnh tiểu đường tuýp 2 khởi phát như một bệnh liên quan đến lối sống. Mọi người không thể điều trị lão hóa và yếu tố di truyền gây ra các bệnh liên quan đến lối sống (mặc dù nghiên cứu về liệu pháp gen cũng đang được tiến hành, nhưng có nhiều gen liên quan đến sự khởi phát của bệnh tiểu đường tuýp 2, do đó, vẫn chưa có phương pháp nào được đưa vào áp dụng. Ngay cả khi tìm ra phương pháp hiệu quả thì sẽ là một thời gian dài). Bởi vì nguyên nhân gây bệnh rất phức tạp, có thể nói bệnh tiểu đường tuýp 2 là một bệnh không thể chữa khỏi, nghĩa là bệnh nhân không thể tiếp tục sống mà không lo lắng về bệnh.

Nhưng tất nhiên, nếu bệnh nhân kiểm soát tốt lượng đường trong máu thì có thể có một cuộc sống thoải mái như một người khỏe mạnh không bị tiểu đường.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh tiểu đường tuýp 2 ở trẻ em và người trẻ tuổi không có triệu chứng cơ năng đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đường trong nước tiểu âm tính không chỉ ra rằng bệnh tiểu đường đã được chữa khỏi. Theo phương pháp giấy thử hiện đang được sử dụng phổ biến, đường nước tiểu chỉ xuất hiện (trở nên dương tính) khi chỉ số đường huyết khoảng 170 mg/dL trở lên. Chỉ số đường huyết thấp hơn 170 mg/dL sẽ cho kết quả đường trong nước tiểu là âm tính, nhưng điều này không đảm bảo rằng các biến chứng tiểu đường sẽ không xảy ra. Hơn nữa, những người mắc bệnh tiểu đường cũng có trường hợp đường huyết thường thấp như ở những người khỏe mạnh trước khi ăn, và nếu bệnh nhân làm xét nghiệm nước tiểu tại thời điểm đó thì sẽ không nhận thấy tình trạng tăng đường huyết sau ăn.

Đường nước tiểu âm tính đơn giản có nghĩa là mức đường huyết không quá cao trong vài giờ trước khi lấy mẫu nước tiểu. Do đó bệnh nhân không thể yên tâm rằng bệnh tiểu đường đã được chữa khỏi chỉ vì đường trong nước tiểu của bạn âm tính.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh tiểu đường tuýp 1 là một căn bệnh không thể chữa khỏi hoàn toàn, nhưng còn bệnh tiểu đường tuýp 2 ở trẻ em và người trẻ tuổi thì sao?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đúng như vậy. Tuy nhiên, vì bệnh tiểu đường tuýp 2 là một bệnh liên quan đến lối sống và béo phì cũng là một tình trạng liên quan đến thói quen sinh hoạt nên thực tế là trẻ béo có nhiều khả năng mắc bệnh tiểu đường tuýp 2.

Ngoài ra, khi một đứa trẻ không có xu hướng béo phì (thừa cân) bị bệnh tiểu đường, khả năng đó có thể là bệnh tiểu đường tuýp 1 loại tiến triển chậm hoặc các loại bệnh tiểu đường do cơ chế khởi phát và tình trạng bệnh khác.

>> Xem thêm câu hỏi: “Bệnh tiểu đường tuýp 2 ở trẻ em và người trẻ tuổi thường được phát hiện khi đường trong nước tiểu là dương tính trong các bài kiểm tra ở trường”. Vậy nếu bệnh tiểu đường được phát hiện, điều trị và có kết quả đường trong nước tiểu là âm tính thì có thể được coi là bệnh tiểu đường đã được chữa khỏi không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Phân biệt với bệnh tiểu đường tuýp 1 được thực hiện với kháng thể GAD (xét nghiệm thường dương tính trong bệnh tiểu đường tuýp 1) và nếu kết quả âm tính, người ta đánh giá rằng có khả năng cao mắc bệnh tiểu đường tuýp 2. Trường hợp bệnh nhân dựa trên kết quả xét nghiệm này mà xác định được bệnh tiểu đường tuýp 1 dù tình trạng y tế giống như bệnh tiểu đường tuýp 2 và bắt đầu điều trị bằng insulin sớm thì sẽ có thể duy trì kiểm soát đường huyết tốt trong thời gian dài sau đó.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh tiểu đường tuýp 1 loại tiến triển chậm và các loại bệnh tiểu đường do cơ chế khởi phát và tình trạng bệnh khác là những bệnh như thế nào?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Trường hợp bệnh nhân biết được một số nguyên nhân gây ra bệnh tiểu đường như có những bệnh khác dẫn đến sự chuyển hóa glucose bất thường, sử dụng một thời gian dài các loại thuốc làm tăng lượng đường trong máu, có bất thường về di truyền…thì có thể phân biệt các loại bệnh tiểu đường do cơ chế khởi phát, tình trạng bệnh khác với bệnh tiểu đường tuýp 2. Nếu bệnh khác hoặc thuốc gây rối loạn chuyển hóa glucose có thể được xác định, bệnh tiểu đường có thể được chữa khỏi hoàn toàn bằng cách điều trị bệnh khác hoặc thay đổi thuốc.

>> Xem thêm câu hỏi: Có cách nào để phân biệt bệnh tiểu đường tuýp 1 loại tiến triển chậm và bệnh tiểu đường tuýp 2 không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Điều đó có nghĩa là những người trong cùng một gia đình rất dễ bị bệnh tiểu đường. Cụ thể, bệnh tiểu đường tuýp 2 ở trẻ em và người trẻ tuổi là căn bệnh có khuynh hướng di truyền mạnh. Ngoài ra, lối sống của trẻ em thường bị ảnh hưởng bởi cha mẹ. Vì lý do này, cũng có khả năng thói quen lối sống dẫn đến béo và bệnh tiểu đường một cách tự nhiên.

Do đó, trẻ bị bệnh tiểu đường tuýp 2 thường có cha mẹ, ông bà cũng bị bệnh tiểu đường tuýp 2.

>> Xem thêm câu hỏi: Có cách nào để phân biệt các loại bệnh tiểu đường do cơ chế khởi phát, tình trạng bệnh khác và bệnh tiểu đường tuýp 2 không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Điều quan trọng nhất là không bao giờ bỏ qua bệnh tiểu đường. Hầu hết trẻ em và người trẻ tuổi mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 thường vẫn còn khả năng bài tiết insulin, do đó hầu như bệnh không có triệu chứng chủ quan nào.

Tuy nhiên, bệnh tiểu đường là căn bệnh với các biến chứng đáng sợ xuất hiện và tiến triển từ giai đoạn khi các triệu chứng không rõ ràng. Nếu không nhận biết bệnh tiểu đường và điều trị thích hợp, tình trạng tăng đường huyết vẫn tiếp tục kéo dài và cuối cùng biến chứng tiểu đường sẽ xảy ra. Hơn nữa, nếu bị tăng đường huyết từ khi còn nhỏ, bệnh nhân có thể bị biến chứng khi bạn trưởng thành. Vì vậy, một khi đã được chẩn đoán bệnh tiểu đường, không nên bỏ mặc bệnh mà nên điều trị tích cực.

>> Xem thêm câu hỏi: Sự khác biệt giữa bệnh tiểu đường tuýp 2 ở trẻ em và người trẻ tuổi với bệnh tiểu đường tuýp 1 là có xu hướng di truyền trong gia đình. Điều này có nghĩa là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Điều quan trọng nhất là mọi người cần đi khám bệnh viện thường xuyên. Nếu không thể đến bệnh viện thường xuyên, hãy hỏi xin liên lạc của bác sĩ để có thể tham khảo ý kiến khi cần thiết. Nên tránh việc hoàn toàn không đi khám bệnh vì có nhiều bệnh mà triệu chứng cơ năng không rõ ràng như bệnh tiểu đường tuýp 2 và khi phát hiện bệnh, không nên lơ là việc điều trị.

>> Xem thêm câu hỏi: Nên làm gì khi bị bệnh tiểu đường tuýp 2 ở trẻ em và thanh thiếu niên?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Trong trường hợp bệnh nhân trưởng thành, việc điều trị bệnh sẽ phụ thuộc vào chính bệnh nhân. Tuy nhiên với bệnh nhân tiểu đường trẻ em, người giám hộ đóng vai trò chính trong việc điều trị. Nếu cha mẹ không hiểu rõ về bệnh tiểu đường thì bệnh tiểu đường ở trẻ sẽ không được điều trị hiệu quả.

>> Xem thêm câu hỏi: Việc không bỏ mặc bệnh tiểu đường là rất quan trọng, nhưng cụ thể bệnh nhân nên làm gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Điều này có nghĩa là bệnh tiểu đường ở trẻ sẽ tiến triển đến mức các biến chứng tiểu đường xảy ra. Một số thống kê cho thấy tỷ lệ biến chứng ở trẻ em và thanh thiếu niên mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 cao hơn ở bệnh tiểu đường tuýp 1.

>> Xem thêm câu hỏi: Sự khác biệt giữa bệnh tiểu đường tuýp 2 ở trẻ em, thanh thiếu niên và bệnh tiểu đường tuýp 2 ở người lớn là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Điều quan trọng là cha mẹ cần chấp nhận bệnh tiểu đường của trẻ và thực hiện điều trị thích hợp. Nếu bạn không quên nó, bệnh tiểu đường tuýp 2 là một căn bệnh không tiến triển nhanh chóng và không gây nguy hiểm đến tính mạng nếu điều trị hợp lý. Cha mẹ có trẻ bị tiểu đường nên cải thiện lượng đường trong máu của trẻ bằng cách học dần những kiến ​​thức cơ bản về bệnh tiểu đường.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh tiểu đường ở trẻ em không được điều trị hiệu quả khi cha mẹ không hiểu về bệnh tiểu đường có nghĩa là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Với sự phát triển của trẻ, cha mẹ nên hướng dẫn cho trẻ về bệnh tiểu đường và cách điều trị. Hãy suy nghĩ cách giúp trẻ hiểu sâu hơn về bệnh tiểu đường để trẻ có thể làm tự mình kiểm soát bệnh.

>> Xem thêm câu hỏi: Cha mẹ có trẻ bị bệnh tiểu đường nên làm gì thì tốt?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nếu phụ nữ mắc bệnh tiểu đường có thai mà không kiểm soát chặt chẽ lượng đường trong máu, nhiều vấn đề khác nhau có thể xảy ra trong thai kỳ và thai nhi có khả năng cũng bị ảnh hưởng. Ngoài ra, ngay cả ở những phụ nữ không mắc bệnh tiểu đường, lượng đường trong máu có thể tăng cao khi mang thai và gây ra bệnh tiểu đường hoặc có lượng đường trong máu cao không đủ để được chẩn đoán là bệnh tiểu đường (rối loạn chuyển hóa glucose). Tình trạng này được gọi là “bệnh tiểu đường thai kỳ“.

>> Xem thêm câu hỏi: Có những chú ý khác nào đối với cha mẹ có trẻ bị tiểu đường?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Những nguy cơ có thể xảy ra ở phụ nữ mang thai khi bị tiểu đường là các biến chứng tiểu đường (đặc biệt là bệnh võng mạcbệnh thận) đột nhiên chuyển biến xấu hơn, tần suất mắc hội chứng tăng huyết áp thai kỳ, chứng đa nước ối, viêm bàng quang và viêm thận có thể cao hơn. Bên cạnh đó, nguy cơ sảy thai, sinh non và thai chết lưu cũng tăng lên. Các vấn đề xảy ra ở trẻ (thai nhi và trẻ sơ sinh) bao gồm trẻ cân nặng quá mức, trẻ nhẹ cân, dị tật, hạ đường huyết và các vấn đề về hô hấp.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh tiểu đường có ảnh hưởng gì đến thai kỳ không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Cân nặng sơ sinh của em bé thường từ 2.500 g trở lên và dưới 4.000 g. Khi trẻ nặng hơn mức này thì sẽ được coi là một đứa trẻ cân nặng quá mức và khi trẻ có cân nặng từ 4.500 g trở lên, sẽ được coi là một đứa trẻ siêu lớn. Khi em bé tăng kích thước, việc sinh nở của mẹ sẽ trở nên khó khăn và nguy cơ ngạt thở ở trẻ sơ sinh… tăng lên.

>> Xem thêm câu hỏi: Những nguy cơ cụ thể xảy ra đối với phụ nữ mắc bệnh tiểu đường khi mang thai là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Ngược lại với một đứa trẻ cân nặng quá mức, trẻ sinh ra nhẹ cân là ít hơn 2.500 g. Thông thường, người ta gọi là trẻ sinh non, về mặt y tế gọi là trẻ sơ sinh nhẹ cân. Những tiến bộ trong chăm sóc trẻ sơ sinh đã giúp cho những đứa trẻ nhẹ cân có thể phát triển khỏe mạnh, tuy nhiên trẻ sinh nhẹ cân vẫn có nhiều rủi ro hơn những em bé có cân nặng tiêu chuẩn.

>> Xem thêm câu hỏi: Trẻ cân nặng quá mức là như thế nào?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nếu phụ nữ bị tiểu đường có kiểm soát đường huyết không tốt liên tục trong một thời gian dài thì nguy cơ bị vô sinh có thể xuất hiện. Tuy nhiên, nguyên nhân gây vô sinh rất rộng. Thông thường nguyên nhân cụ thể không thể được xác định. Vì vậy, ngay cả khi một phụ nữ mắc bệnh tiểu đường không thể sinh con, vẫn không thể chắc chắn đó là do bệnh tiểu đường.

>> Xem thêm câu hỏi: Trẻ sinh ra nhẹ cân là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Vấn đề xảy ra ở phụ nữ mang thai khi bị tiểu đường là do kiểm soát đường huyết không đủ tốt. Những vấn đề xảy ra với bé cũng do sự kiểm soát lượng đường trong máu không tốt và cũng có liên quan đến tình trạng nhiễm toan ceton.

>> Xem thêm câu hỏi: Phụ nữ bị tiểu đường có bị vô sinh không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Không có gì đặc biệt. Phụ nữ bị tiểu đường có thể sử dụng thuốc uống tránh thai mà không có vấn đề. Tuy nhiên, nếu có biến chứng tiểu đường hoặc kiểm soát lượng đường trong máu kém, hãy tham khảo ý kiến ​​bác sĩ và làm theo hướng dẫn.

Ngoài ra, biện pháp tránh thai bằng bao cao su là phổ biến ở Nhật Bản. Để tránh mang thai bất ngờ, phụ nữ bị tiểu đường nên nói chuyện với người tình để hiểu rõ hơn về mối quan hệ giữa bệnh tiểu đường và mang thai.

>> Xem thêm câu hỏi: Nguyên nhân gây ra vấn đề khi mang thai ở phụ nữ bị tiểu đường là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Một số điều kiện mà phụ nữ bị tiểu đường có thể mang thai cụ thể:

(1) Kiểm soát đường huyết tốt

(2) Không có bệnh võng mạc tiểu đường hoặc bệnh võng mạc có tình trạng ổn định

(3) Không có bệnh thận tiến triển

(4) không quá béo phì

(5) huyết áp không cao

(6) Bệnh nhân đang dùng thuốc uống giảm đường huyết (thuốc uống) nên chuyển sang insulin.

>> Xem thêm câu hỏi: Trong phương pháp tránh thai cho phụ nữ mắc bệnh tiểu đường có những chú ý đặc biệt nào không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Việc phụ nữ bị tiểu đường mang thai tiếp tục duy trì điều trị cẩn thận trong thai kỳ là rất quan trọng. Nếu làm như vậy, thai phụ bị tiểu đường có thể sinh con an toàn không khác với phụ nữ mang thai khỏe mạnh.

>> Xem thêm câu hỏi: Các điều kiện mà phụ nữ bị tiểu đường có thể mang thai là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đúng vậy. Tuy nhiên, ngay cả trong trường hợp phụ nữ sinh con không mắc bệnh tiểu đường, không phải là không có nguy cơ gặp vấn đề với mẹ và em bé, do đó phụ nữ khi mang thai cần đặc biệt chú ý.

>> Xem thêm câu hỏi: Nếu phụ nữ bị tiểu đường có thai sau khi đáp ứng đúng những điều kiện nêu ở câu hỏi trước thì có thể có một đứa con khỏe mạnh ngay cả khi bị tiểu đường không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Có trường hợp siêu âm có thể phát hiện những dị tật thai nhi và có những trường hợp không thể phát hiện. Tất nhiên, thai phụ cũng có thể đưa ra quyết định sinh con ngay cả khi phát hiện ra rằng khả năng dị tật ở trẻ là cao sau khi được kiểm tra. Sự phán xét và quyết định là phụ thuộc vào cha mẹ của trẻ.

>> Xem thêm câu hỏi: Điều đó có nghĩa là phụ nữ bị tiểu đường có thể có một em bé khỏe mạnh?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đúng vậy. Đối với phụ nữ mắc bệnh tiểu đường, bất kể tuýp 1, tuýp 2, trước tiên cần biết mối quan hệ giữa bệnh tiểu đường và mang thai trước khi đến độ tuổi có thể mang thai.

Tuy nhiên, trong những năm gần đây, bệnh tiểu đường tuýp 2 ở người trẻ tuổi đã gia tăng ở Nhật Bản. Không giống như bệnh tiểu đường tuýp 1, bệnh tiểu đường tuýp 2 thường không có triệu chứng rõ ràng nên thường bệnh nhân không nhận ra bệnh và không điều trị. Kết quả là nhiều phụ nữ sau khi mang thai mới phát hiện đã bị bệnh từ trước khi mang thai.

>> Xem thêm câu hỏi: Thai phụ không thể nắm bắt được các bất thường của thai nhi trước khi sinh bằng siêu âm?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Hội chứng tăng huyết áp thai kỳ là “nếu phụ nữ bị huyết áp cao đến 20 tuần sau khi mang thai, 12 tuần sau khi sinh hoặc nếu phụ nữ bị huyết áp cao và protein niệu và những triệu chứng này không phải do biến chứng tự phát của thai kỳ”. Người ta cho rằng đây là tình trạng người mẹ không thích nghi tốt với thai kỳ.

Trước đây, tình trạng này được gọi là “nhiễm độc thai nghén”, nhưng ngày càng rõ ràng rằng nguyên nhân chính của bệnh là huyết áp cao và nên có định nghĩa là “hội chứng tăng huyết áp thai kỳ”.

Tỷ lệ mắc bệnh cao trong trường hợp mang thai lần đầu, béo phì, tuổi già, tiểu đường…Tình trạng này sẽ dễ gây nhau bong non dẫn đến tửu vong thai nhi.

>> Xem thêm câu hỏi: Hiểu rõ về bệnh tiểu đường là điều đầu tiên cần làm tốt để tránh thai hoặc lên kế hoạch mang thai tốt đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nếu phụ nữ bị béo phì chủ yếu mắc bệnh tiểu đường tuýp 2, phụ nữ có thể không duy trì được sự kiểm soát đường huyết tốt, điều này sẽ làm tăng các vấn đề nguy hiểm liên quan đến thai kỳ. Cụ thể, thai nhi (em bé) có thể trở thành một đứa trẻ khổng lồ, thai kỳ có thể kéo dài, hội chứng tăng huyết áp thai kỳ (nhiễm độc thai nghén) có thể xảy ra. Việc mang thai có kế hoạch với sự kiểm soát cân nặng càng nhiều càng tốt là lý tưởng.

>> Xem thêm câu hỏi: Hội chứng tăng huyết áp thai kỳ là gì? 

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Vì huyết áp cao được biết là làm tăng nguy cơ xuất hiện hội chứng tăng huyết áp thai kỳ (nhiễm độc thai nghén), thai phụ nên kiểm soát lượng muối và kiểm soát huyết áp ở mức càng bình thường càng tốt. Ngoài ra không nên sử dụng chất ức chế men chuyển ACE là một loại thuốc hạ huyết áp và có thể được sử dụng để điều trị (hoặc phòng ngừa) bệnh thận tiểu đường trong thai kỳ vì thuốc có khả năng gây quái thai (có thể gây dị tật thai nhi).

>> Xem thêm câu hỏi: Có phải béo phì cũng cản trở việc mang thai?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Khi các biến chứng tiểu đường trở nên tồi tệ hơn khi mang thai hoặc hội chứng tăng huyết áp thai kỳ (nhiễm độc thai nghén) xảy ra và khó tiếp tục mang thai, thai phụ nên mang thai cho đến khi thai nhi có thể sống sót an toàn và tiến hành mổ lấy thai. Ngoài ra, mổ lấy thai có thể được lựa chọn nếu phụ nữ mang thai béo phì hoặc thừa cân và nếu em bé là một đứa trẻ lớn, khó sinh bình thường.

>> Xem thêm câu hỏi: Huyết áp cao có tốt cho thai kỳ không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Có rất nhiều điểm cần lưu ý khi mang thai và sinh con ở phụ nữ mắc bệnh tiểu đường. Nếu phụ nữ bị tiểu đường có kế hoạch mang thai với kiểm soát lượng đường trong máu tốt và sinh con tại một cơ sở y tế với các nhân viên chuyên môn về bệnh tiểu đường, sản phụ khoa và chăm sóc trẻ sơ sinh, thai phụ có thể sinh con một cách an toàn.

>> Xem thêm câu hỏi: Tại sao thai phụ bị tiểu đường lại thường sinh mổ?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Phụ nữ bị tiểu đường cần chú ý những điều sau từ khi mang thai đến khi sinh con:

+ Duy trì kiểm soát đường huyết nghiêm ngặt

+ Nhận biết sự biến động của lượng đường trong máu

+ Chú ý kiểm tra để tránh ketosis càng nhiều càng tốt

+ Chế độ ăn uống và kiểm soát cân nặng, dùng thuốc theo chu kỳ mang thai

+ Tập thể dục trị liệu cẩn thận

+ Coi chừng nhiễm trùng đường tiết niệu

+ Nhận biết sức khỏe của miệng của bản thân

+ Thường xuyên kiểm tra các biến chứng tiểu đường

+ Không hút thuốc, tránh hút thuốc thụ động

>> Xem thêm câu hỏi: Phụ nữ mắc bệnh tiểu đường vẫn khó sinh đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Trong chế độ ăn uống, hãy xem xét đến sự tăng trưởng của thai nhi để tăng lượng năng lượng hấp thu hơn một chút so với bình thường. Bác sĩ sẽ quyết định thai phụ nên tăng bao nhiêu dựa trên cân nặng và chu kỳ mang thai của thai phụ. Nhìn chung, dường như trong nửa đầu của thai kỳ, lượng năng lượng hấp thu thường tăng thêm 150 kcal và trong nửa sau là 350 kcal.

>> Xem thêm câu hỏi: Phụ nữ bị tiểu đường nên chú ý những gì từ khi mang thai đến khi sinh con?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Khi mang thai, phụ nữ thường tăng cân dần dần do sự phát triển của thai nhi, tăng lượng nước ối và tăng thể tích máu. Điều này cũng tương tự ở thai phụ bị tiểu đường.

Trong trường hợp thai phụ bị tiểu đường, tốt hơn là không để tăng cân quá nhiều để phòng ngừa việc sinh trẻ quá lớn và duy trì kiểm soát đường huyết. Tuy nhiên, để ngăn ngừa ketosis, sự chậm phát triển của thai nhi và sinh non, thai phụ tốt hơn nên cố gắng thực hiện chế độ ăn uống để cân nặng tăng với mức độ thích hợp. Việc kiểm soát cân nặng của thai phụ bị tiểu đường thường được thực hiện với mức tăng khoảng 10 kg hoặc hơn trước khi sinh.

>> Xem thêm câu hỏi: Nội dung chi tiết của chế độ ăn uống theo số tuần mang thai ở thai phụ bị tiểu đường là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Được biết, trong khi mang thai, bệnh nha chu và sâu răng có khả năng xảy ra ở thai phụ. Một số phát hiện cho thấy bệnh nha chu có thể làm tăng tần suất sinh non và sinh trẻ nhẹ cân. Hơn nữa, nếu lượng đường trong máu thai phụ cao, bệnh nha chu có khả năng xảy ra và nếu có bệnh nha chu, lượng đường trong máu sẽ lại tăng cao. Thai phụ bị tiểu đường nên chú ý sức khỏe răng miệng để ngăn ngừa bệnh nha chu và sâu răng.

>> Xem thêm câu hỏi: Việc kiểm soát cân nặng ở thai phụ bị tiểu đường nên được thực hiện như thế nào?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nếu phụ nữ có bệnh võng mạc hoặc bệnh thận tiểu đường từ trước khi mang thai, bệnh có thể tiến triển nhanh chóng trong khi mang thai, vì vậy cần phải kiểm tra cẩn thận. Ngoài ra, thai phụ cũng cần kiểm tra xem thai nhi có khỏe mạnh không hoặc kiểm tra có bất kỳ vấn đề nào có khả năng xảy ra với thai phụ bị tiểu đường như đa nước ối và tăng huyết áp thai kỳ để điều trị một cách hiệu quả.

>> Xem thêm câu hỏi: Ý nghĩa của việc nhận thức về sức khỏe răng miệng ở phụ nữ bị tiểu đường là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nước ối là một chất lỏng chứa đầy trong màng ối và được hình thành từ dịch tiết ra của màng ối và nước tiểu của thai nhi. Nước ối có vai trò ngăn chặn áp lực từ bên ngoài của người mẹ tác động trực tiếp lên thai nhi và tạo ra một môi trường mà thai nhi có thể tự do di chuyển chân tay để hỗ trợ sự phát triển của trẻ.

Lượng nước ối thay đổi tùy theo số tuần mang thai, nhưng đó là khoảng 700 mL vào tuần 28 của thai kỳ. Nếu nước ối nhiều hơn 800 mL, thai phụ được chẩn đoán có chứng đa nước ối. Tình trạng đa nước ối sẽ gây nhau bong non, thai nhi phát triển chậm, dị tật và tử vong chu sinh.

Hội chứng tăng huyết áp thai kỳ tham khảo Thông tin chung về bệnh câu hỏi 213.

>> Xem thêm câu hỏi: Các biến chứng tiểu đường cần lưu ý khi mang thai là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nếu lượng đường trong máu của thai phụ cao, thai nhi nhận được dinh dưỡng từ mẹ cũng sẽ bị tăng đường huyết, dẫn đến làm tăng lượng nước tiểu của thai nhi và gây dư thừa nước ối.

>> Xem thêm câu hỏi: Chứng đa nước ối, hội chứng tăng huyết áp thai kỳ là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Việc hút thuốc lá (bao gồm cả hút thuốc thụ động) ở phụ nữ mang thai sẽ làm chậm sự phát triển của thai nhi và làm tăng tần suất sảy thai, dị tật tim. Thuốc lá không tốt vì chúng gây hại cho cơ thể ngay cả khi phụ nữ không mang thai, nhưng đặc biệt là khi mang thai, người ta nói rằng người mẹ cũng như những người xung quanh không nên hút thuốc.

>> Xem thêm câu hỏi: Mối quan hệ giữa bệnh tiểu đường và chứng đa nước ối là như thế nào?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Những lưu ý chung đối với phụ nữ bị tiểu đường khi mang thai cụ thể là: hãy tham khảo ý kiến ​​bác sĩ hoặc dược sĩ về thuốc tiểu đường (bao gồm cả thuốc điều trị bệnh khác), thận trọng về việc sử dụng rượu và bánh kẹo, thực hiện chế độ ăn nhiều chất xơ để phòng ngừa táo bón, thiếu vitamin và khoáng chất.

>> Xem thêm câu hỏi: Tác hại của thuốc lá đối với phụ nữ mang thai?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Là tình trạng phụ nữ không mắc bệnh tiểu đường bị rối loạn chuyển hóa glucose sau khi mang thai. Nếu phụ nữ bị tiểu đường trước khi mang thai hoặc nếu phụ nữ bị tăng đường huyết đủ để được chẩn đoán bị bệnh tiểu đường thì được gọi là bệnh tiểu đường từ trước khi mang thai.

>> Xem thêm câu hỏi: Phụ nữ bị tiểu đường cần chú ý những gì khác khi mang thai?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nếu phụ nữ bị tiểu đường thai kỳ không bị tăng đường huyết đủ để được chẩn đoán là bệnh tiểu đường, tần suất trẻ sơ sinh khổng lồ sẽ cao hơn ở phụ nữ mang thai khỏe mạnh, nhưng nó không cao như bệnh tiểu đường từ trước khi mang thai. Về tần suất trẻ bị dị tật thường không có sự khác biệt đáng kể với phụ nữ mang thai khỏe mạnh. Bởi vì phụ nữ sẽ tương đối dễ kiểm soát lượng đường trong máu nếu được chẩn đoán bệnh tiểu đường thai kỳ nên các vấn đề ảnh hưởng đến mẹ không tăng quá nhiều. Đây là điểm có thể được phân biệt với bệnh tiểu đường từ trước khi mang thai.

Tuy nhiên, so với phụ nữ mang thai khỏe mạnh, tỷ lệ trẻ sơ sinh khổng lồ và những khó khăn chuyển dạ ở thai phụ bị tiểu đường thường xuất hiện nhiều hơn. Ngoài ra, mặc dù nhiều bệnh nhân tiểu đường thai kỳ có lượng đường trong máu thấp hơn sau khi sinh nhưng các bất thường chuyển hóa glucose thường xuất hiện trở lại và phụ nữ có thể lại bị bệnh tiểu đường sau nhiều năm.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh tiểu đường thai kỳ là bệnh gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Để ngăn ngừa các vấn đề về mang thai và sinh nở liên quan đến tăng đường huyết nhẹ trước và để đảm bảo rằng phụ nữ không bỏ qua bất kỳ rối loạn chuyển hóa glucose nào xảy ra sau khi sinh con hoặc xảy ra một thời gian dài sau khi sinh.

>> Xem thêm câu hỏi: Việc phân biệt bệnh tiểu đường từ trước khi mang thai và bệnh tiểu đường thai kỳ có ý nghĩa gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Phụ nữ sẽ không biết chính xác, nhưng có thể dự đoán nếu bản thân dễ bị tiểu đường thai kỳ. Bệnh tiểu đường thai kỳ được coi là có nguy cơ cao hơn đối với những người dễ mắc bệnh tiểu đường (bệnh tiểu đường tuýp 2). Ví dụ, những người dễ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 là những người bị béo phì, có thể trạng di truyền dễ mắc bệnh tiểu đường (có tiền sử gia đình mắc bệnh tiểu đường), dương tính với glucose trong nước tiểu thông qua kiểm tra sức khỏe….Những phụ nữ bị tiểu đường thai kỳ ở lần mang thai trước và đã sinh ra một em bé khổng lồ cũng có nguy cơ bị tiểu đường thai kỳ trong lần mang thai tiếp theo.

>> Xem thêm câu hỏi: Chẩn đoán bệnh tiểu đường thai kỳ để làm gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Yêu cầu về kiểm soát lượng đường trong máu để ngăn ngừa các vấn đề như sinh con quá lớn cũng giống như trong trường hợp phụ nữ bị tiểu đường từ trước khi mang thai. Để kiểm soát đường huyết, thai phụ không chỉ nên thực hiện tốt chế độ ăn uống mà đôi khi cũng cần phải điều trị bằng insulin.

>> Xem thêm câu hỏi: Khi nào thai phụ được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường thai kỳ?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Phụ nữ sẽ không biết chính xác, nhưng có thể dự đoán nếu bản thân dễ bị tiểu đường thai kỳ. Bệnh tiểu đường thai kỳ được coi là có nguy cơ cao hơn đối với những người dễ mắc bệnh tiểu đường (bệnh tiểu đường tuýp 2). Ví dụ, những người dễ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 là những người bị béo phì, có thể trạng di truyền dễ mắc bệnh tiểu đường (có tiền sử gia đình mắc bệnh tiểu đường), dương tính với glucose trong nước tiểu thông qua kiểm tra sức khỏe….Những phụ nữ bị tiểu đường thai kỳ ở lần mang thai trước và đã sinh ra một em bé khổng lồ cũng có nguy cơ bị tiểu đường thai kỳ trong lần mang thai tiếp theo.

>> Xem thêm câu hỏi: Nếu thai phụ được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường thai kỳ thì phải làm thế nào?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

So với bệnh tiểu đường tuýp 2, người ta cho rằng không xác định được người như thế nào thì dễ mắc bệnh tiểu đường tuýp 1. Mặc một số trường hợp bệnh tiểu đường tuýp 1 khởi phát liên quan đến yêu tố di truyền nhưng trường hợp này không nhiều. Vì vậy, hiện tại, không thể trả lời rõ ràng câu hỏi này, nhưng có những thống kê chỉ ra rằng phụ nữ có nhiều khả năng mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 khi mang thai.

Ngoài ra, trong số các loại bệnh tiểu đường tuýp 1 trong đó sự tự động bài tiết insulin biến mất, những năm gần đây, có một loại dẫn đến tình trạng tăng đường huyết nhanh và nhiễm ketoacidosis trong một thời gian rất ngắn từ khi phát bệnh, đặc biệt là suy giảm tự bài tiết insulin nhanh chóng. Người ta gọi đó là bệnh tiểu đường tuýp 1 nguy cấp. Mặc dù bệnh tiểu đường tuýp 1 thường khởi phát ở trẻ em, người ta chỉ ra rằng bệnh tiểu đường tuýp 1 nguy cấp thường phổ biến hơn ở người trưởng thành và trong trường hợp phụ nữ, bệnh thường được khởi phát do mang thai.

>> Xem thêm câu hỏi: Phụ nữ có biết bản thân bị tiểu đường thai kỳ từ trước khi mang thai không? 

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Không phải. Bởi vì bệnh tiểu đường thai kỳ là một rối loạn chuyển hóa glucose nhẹ xuất hiện trong thai kỳ, bệnh tiểu đường tuýp 1 nguy cấp không phải như vậy. Bệnh tiểu đường tuýp 1 nguy cấp là một “bệnh tiểu đường” thực sự. Bệnh cũng khởi phát ở phụ nữ và nam giới ngoài phụ nữ mang thai.

>> Xem thêm câu hỏi: Những người có thể trạng dễ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 có khả năng bị tiểu đường thai kỳ. Vậy trường hợp những người dễ bị tiểu đường tuýp 1 thì sao?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Vì tại thời điểm chẩn đoán bệnh, thai phụ có thể bị tăng đường huyết và nhiễm toan ceton nghiêm trọng nên việc điều trị khẩn cấp ngay lập tức cho các bà mẹ là ưu tiên hàng đầu. Và trong nhiều trường hợp, thai phụ thường phải từ bỏ em bé.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh tiểu đường tuýp 1 nguy cấp có phải là bệnh tiểu đường thai kỳ không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Kiểm tra xem em bé sinh ra có khỏe mạnh không, phản ứng với việc giảm đột ngột lượng tiêm insulin cần thiết để kiểm soát đường huyết của người mẹ và kiểm tra lại nếu biến chứng tiểu đường không tiến triển. Tuy nhiên, hãy yên tâm rằng mọi vấn đề đều được quản lý bởi nhân viên y tế có chuyên môn.

>> Xem thêm câu hỏi: Điều gì xảy ra khi phụ nữ bị bệnh tiểu đường tuýp 1 nguy cấp khi mang thai?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Các bà mẹ mắc bệnh tiểu đường (đặc biệt là bệnh tiểu đường tuýp 1) thường không có sữa như những bà mẹ không bị tiểu đường. Người ta cho rằng tình trạng này liên quan đến căng thẳng do phải thực hiện chế độ ăn uống và liệu pháp insulin để kiểm soát lượng đường trong máu. Tuy nhiên, nếu phụ nữ có sữa, tất nhiên có thể cho con bú bình thường. Việc nuôi con bằng sữa mẹ là một phương pháp bổ sung dinh dưỡng hoàn chỉnh cho bé. Ngoài ra, vì sữa mẹ bị ảnh hưởng bởi lượng đường trong máu, khi các bà mẹ bị tăng đường huyết, glucose sẽ có nhiều trong sữa mẹ, nhưng điều này không gây ảnh hưởng xấu đối với trẻ em.

Ngoài ra, nếu người mẹ dùng thuốc uống giảm đường huyết (thuốc uống) trước khi mang thai và chuyển sang dùng insulin khi mang thai thì người mẹ nên tiếp tục điều trị bằng insulin trong thời gian cho con bú.

>> Xem thêm câu hỏi: Những việc cần làm sau khi phụ nữ bị bệnh tiểu đường sinh con là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Có một số điểm thai phụ bị tiểu đường cần lưu ý sau khi sinh

+ Đối với thai phụ bị tiểu đường tuýp 1 và 2

Hãy kiểm tra lại việc điều trị bệnh tiểu đường (kiểm soát đường huyết) của bản thân

+ Đối với những thai phụ bị tiểu đường thai kỳ

Dù đường huyết giảm sau khi sinh những vẫn cần luôn chú ý đến bệnh tiểu đường

+ Đối với bệnh nhân tiểu đường tuýp 2 và tiểu đường thai kỳ

Vui lòng chú ý đến sức khỏe của trẻ khi sinh ra

>> Xem thêm câu hỏi: Phụ nữ bị tiểu đường có thể cho con bú được không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Có những phụ nữ trở nên béo phì hoặc thừa cân mà không lấy lại được cân nặng bình thường khi mang thai hoặc sinh con. Béo phì thường có ảnh hưởng xấu đến kiểm soát bệnh tiểu đường.

>> Xem thêm câu hỏi: Có điểm nào thai phụ bị tiểu đường cần lưu ý sau khi sinh không?

https://kienthuctieuduong.vn

 

 

Chia sẻ

Không có điều đó. Tuy nhiên, nếu phụ nữ có thai mà không nhận thức được rằng lượng đường trong máu của bản thân cao thì rất dễ gây ra nhiều ảnh hưởng xấu. Kiểm soát đường huyết là cần thiết để ngăn chặn những vấn đề như vậy.

>> Xem thêm câu hỏi: Ý nghĩa của việc kiểm tra cân nặng của thai phụ là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh tiểu đường tuýp 2tiểu đường thai kỳ cho thấy người mẹ có thể trạng dễ mắc bệnh tiểu đường. Vì thể trạng có thể di truyền nên em bé sinh ra cũng có thể có thể trạng với lượng đường trong máu cao.

>> Xem thêm câu hỏi: Phụ nữ mắc bệnh tiểu đường thai kỳ có khó sinh con thứ hai không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh tiểu đường ở trẻ em” trước đây gần như tương đương với bệnh tiểu đường tuýp 1, nhưng hiện nay có nhiều trẻ bị bệnh tiểu đường tuýp 2. Trong đó, bệnh tiểu đường tuýp 2 có tính di truyền cao hơn. Vì vậy, trẻ em sinh ra từ người mẹ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 hoặc tiểu đường thai kỳ có thể cần chú ý đến bệnh tiểu đường tuýp 2 khi còn nhỏ. Tuy nhiên, không phải lo lắng về bệnh tiểu đường tuýp 2 ở trẻ ngay sau khi được sinh ra.

>> Xem thêm câu hỏi: Nếu thai phụ bị tiểu đường tuýp 2 và tiểu đường thai kỳ, việc chú ý về sức khỏe của em bé có nghĩa là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Cho đến khi trẻ học tiểu học lớp bé, khả năng bị bệnh tiểu đường là không cao. Cha mẹ cần lưu ý về kết quả xét nghiệm đường trong nước tiểu khi trẻ học tiểu học lớp lớn. Ngoài ra, cần cẩn thận không cho trẻ ăn quá nhiều nhiều đồ ăn nhẹ hoặc uống quá nhiều nước ngọt.

>> Xem thêm câu hỏi: Trẻ có mẹ bị tiểu đường có dễ mắc bệnh tiểu đường ở trẻ em không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Việc có bị bệnh tiểu đường hay không được đánh giá bởi giá trị lượng đường trong máu, nhưng giữa mức đường trong máu được chẩn đoán là bệnh tiểu đường và mức đường trong máu có thể được đánh giá là khỏe mạnh có một ngưỡng ở giữa không thuộc giá trị chẩn đoán nào. Những người rơi vào ngưỡng giữa này được gọi là nhóm tiền tiểu đường.

>> Xem thêm câu hỏi: Cần chú ý về bệnh tiểu đường ở tầm tuổi nào của trẻ?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Thật ra, không thể nói như vậy. Trong những năm gần đây, số liệu thống kê các nghiên cứu được công bố trong và ngoài nước đã chỉ ra rằng dù là nhóm tiền tiểu đường nhưng nếu không chú ý cẩn thận, tình trạng có thể trở nên tồi tệ và chuyển thành bệnh tiểu đường.

>> Xem thêm câu hỏi: Làm thế nào để người thuộc nhóm tiền tiểu đường biết bản thân có bị tiểu đường hay chưa?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Có hai lý do tại sao không thể nói rằng nhóm tiền tiểu đường là không có gì cần lo lắng. Một là những người thuộc nhóm tiền tiểu đường có khả năng mắc bệnh tiểu đường trong tương lai. Thứ hai, những người thuộc nhóm tiền tiểu đường thường bị hội chứng chuyển hóa. Để rõ ràng, có thể chia thành “những người ở giai đoạn trước khi bị bệnh tiểu đường” và “những người bị hội chứng chuyển hóa”.

>> Xem thêm câu hỏi: Tiền tiểu đường chưa phải là bệnh tiểu đường nên không cần quá lo lắng đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Ngay cả những người cùng thuộc nhóm tiền tiểu đường, cũng có những người có tình trạng gần với người khỏe mạnh và những người có tình trạng gần với bệnh nhân tiểu đường. Do đó, sự khác biệt thống kê là lớn, nhưng có thể nói rằng ít nhất 5 đến 6 lần những người khỏe mạnh (những người có kết quả xét nghiệm glucose bình thường) dễ bị tiểu đường. Những người có lượng đường huyết sau ăn cao (giá trị sau 2 giờ sau dung nạp glucose 160-170 mg/ dL) có nhiều khả năng mắc bệnh tiểu đường hơn một chục lần. Tuy nhiên, một số người thuộc nhóm tiền tiểu đường có đường huyết gần mức bình thường và người ta cho rằng sẽ có 20-30% người thuộc nhóm tiền tiểu đường không mắc bệnh tiểu đường.

>> Xem thêm câu hỏi: Điểm giống và khác giữa bệnh tiểu đường và giai đoạn trước khi bị tiểu đường là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đúng vậy. Tuy nhiên, không thể đặt tiêu chuẩn chẩn đoán rõ ràng vì không rõ thời gian mà bệnh xơ vữa động mạch dễ dàng tiến triển. Tuy nhiên, gần đây, khái niệm bệnh về “hội chứng chuyển hóa” đã được thiết lập và các tiêu chuẩn chẩn đoán đã được đặt ra.

>> Xem thêm câu hỏi: Có bao nhiêu khả năng người thuộc nhóm tiền tiểu đường bị bệnh tiểu đường thực sự?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Người bệnh cần tiếp nhận kiểm tra dung nạp glucose để biết chính xác. Nếu kiểm tra sức khỏe chỉ ra rằng lượng đường trong máu cao hoặc nếu có đường trong nước tiểu, có thể nói rằng khả năng thuộc nhóm tiền tiểu đường là rất cao. Cần phải tiếp nhận kiểm tra lại để chẩn đoán chính xác hơn.

Nếu không thường xuyên kiểm tra y tế hoặc nếu có ít cơ hội, hãy lưu ý những điều sau đây và nếu có thể, hãy làm xét nghiệm.

+ Cân nặng cơ thể tăng nhiều hơn trước

+ Chú ý đến kích thước vòng eo hiện tại so với trước đây

+ Có người thân bị tiểu đường

+ Được chẩn đoán bị tăng huyết áp, tăng lipid máu, viêm gan mãn tính

+ Phụ nữ bị tiểu đường thai kỳ hoặc đã từng sinh trẻ khổng lồ

>> Xem thêm câu hỏi: Trong trường hợp tiền tiểu đường của người ở giai đoạn trước khi bị bệnh tiểu đường, bệnh không được gọi là bệnh tiểu đường khởi phát cấp tính mà là bệnh tiến triển dần dần đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nếu có tình trạng tăng cân hoặc kích thước vòng eo nhiều hơn trước (ở độ tuổi 20), hãy cố gắng khôi phục chúng về giá trị trước đó càng nhiều càng tốt. Để làm như vậy, hãy nghĩ về chế độ ăn uống và vận động cơ thể càng nhiều càng tốt. Ngoài ra, không nên để căng thẳng tích lũy.

>> Xem thêm câu hỏi: Làm thế nào để biết bản thân có thuộc nhóm tiền tiểu đường không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Hội chứng chuyển hóa đề cập đến sự tích tụ quá mức chất béo nội tạng, dẫn đến tính kháng insulin, tăng đường huyết, huyết áp cao, tăng lipid máu, tăng axit béo tự do, tiết adipocytokine bất thường…Mặc dù các giá trị kiểm tra riêng lẻ như chỉ số đường huyết, huyết áp và lipid huyết thanh không quá cao, nhưng xác suất mắc bệnh thiếu máu cơ tim (đau thắt ngực và nhồi máu cơ tim) và đột quỵ (như huyết khối não) cao hơn nhiều.

>> Xem thêm câu hỏi: Nên làm gì để ngăn ngừa bệnh tiền tiểu đường trở thành bệnh tiểu đường?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Chất béo được giải phóng từ mô mỡ vào máu và được sử dụng làm nguồn năng lượng. Khi chúng không được sử dụng làm năng lượng, chúng được lưu trữ trong mô mỡ dưới dạng chất béo trung tính có thể hợp thành với glucose. Nếu axit béo tự do trong máu cao, tình trạng tăng lipid máu hoặc tính kháng insulin có thể được chuyển biến nặng hơn.

Chất béo nội tạng tích cực giải phóng và hấp thụ axit béo tự do này và ảnh hưởng mạnh đến sự tiến triển của xơ vữa động mạch hơn so với chất béo dưới da. Ngoài ra, các axit béo tự do được giải phóng từ chất béo nội tạng trực tiếp vào gan. Sau đó, ở gan, chức năng sản xuất glucose (đường trong máu) từ chất béo được kích hoạt và kết quả là lượng đường trong máu cũng tăng lên.

>> Xem thêm câu hỏi: Hội chứng chuyển hóa là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Các chất hoạt động sinh lý với các chức năng khác nhau được sản xuất bởi các tế bào được gọi là cytokine. Một số lượng lớn các cytokine đã được tìm thấy cho đến nay, một vài trong đó cũng được áp dụng để điều trị bệnh. Ví dụ, interferon được sử dụng để điều trị viêm gan virut, là một loại cytokine.

Và các nghiên cứu gần đây đã chỉ ra rằng một số loại steacaine có thể được sản xuất từ ​​mô mỡ, trước đây được cho là chỉ là một kho dự trữ năng lượng. Những cytokine này được gọi là adipocytokine.

>> Xem thêm câu hỏi: Axit béo tự do là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Adipocytokine, một loại adiponectin, có tác dụng cải thiện độ nhạy insulin và ức chế sự tiến triển của xơ vữa động mạch. Nếu chất béo nội tạng tích tụ, sự bài tiết của Adipocytokine giảm, tính kháng insulin trở nên mạnh hơn và thúc đẩy tình trạng xơ vữa động mạch. Ngoài ra, một loại adipocytokine khác có tác dụng làm cho máu dễ đông hơn và sự tích tụ chất béo nội tạng làm tăng bài tiết của chúng, điều này có thể dễ gây ra huyết khối (như đau thắt ngực, nhồi máu cơ tim hoặc nhồi máu não). Thêm vào đó, các nhà nghiên cứu cũng đã tìm thấy adipocytokine, có tác dụng kiểm soát sự thèm ăn.

>> Xem thêm câu hỏi: Adipocytokine là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nguyên nhân của bệnh tiểu đường (nguyên nhân gây tăng đường huyết) là do giảm bài tiết insulin và kháng insulin, và hội chứng chuyển hóa chủ yếu là một bệnh đặc trưng sau đó. Vì vậy, mặc dù có sự chồng chéo lớn với bệnh tiểu đường (bệnh tiểu đường tuýp 2) và nhóm tiền tiểu đường, nhưng nó không bằng nhau. Một số người mắc bệnh tiểu đường rơi vào hội chứng chuyển hóa, nhưng những người khác thì không. Ngoài ra, người ta cho rằng có nhiều trường hợp bệnh nhân trải qua hội chứng chuyển hóa trong quá trình tiến triển thành bệnh tiểu đường.

>> Xem thêm câu hỏi: Adipocytokine đóng vai trò gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Tiêu chuẩn chẩn đoán Hội chứng chuyển hóa hiện tại ở Nhật Bản như sau.

(1) Đo chu vi vòng eo

Nếu kích thước từ 85 cm trở lên đối với nam và 90 cm trở lên đối với nữ, người ta đánh giá rằng chất béo nội tạng được tích lũy quá mức và cần thực hiện kiểm tra (2).

(2) Một người đúng với các giá trị kiểm tra (1) và được chẩn đoán mắc hội chứng chuyển hóa nếu đúng với 2 hoặc nhiều hơn 3 mục sau đây

<Lipid huyết thanh>

Tăng triglyceride máu (triglyceride >150 mg/ dL) hoặc “hạ cholesterol máu” (HDL cholesterol <40 mg/ dL) hoặc có cả hai giá trị.

<Huyết áp>

Huyết áp tâm thu là ≥130 mmHg hoặc huyết áp tâm trương là ≥85 mmHg, hoặc có cả hai giá trị.

<Lượng đường trong máu>

Tăng đường huyết lúc đói (chỉ số đường huyết lúc đói là ≥110 mg/ dL)

>> Xem thêm câu hỏi: Hội chứng chuyển hóa là một bệnh khác từ bệnh tiểu đường và nhóm tiền tiểu đường?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đúng vậy. Một số tổ chức khác nhau, chẳng hạn như Liên đoàn Đái tháo đường Quốc tế (IDF) và Tổ chức Y tế Thế giới (WHO) có đưa ra các tiêu chuẩn chẩn đoán hơi khác nhau. Điều này là do Hội chứng chuyển hóa vẫn là một khái niệm mới và có một sự khác biệt lớn trong các phương pháp đối phó với những tác động tiêu cực của sự tích tụ quá mức chất béo nội tạng. Ngoài ra, để kiểm tra lượng chất béo nội tạng được tích lũy chính xác, cần phải kiểm tra hình ảnh như CT scan, nhưng phương pháp này không được sử dụng rộng rãi ở nước ngoài vì thiết bị kiểm tra đắt tiền. Việc thiếu dữ liệu đầy đủ ở Nhật Bản cũng được coi là một trong những nguyên nhân của sự khác biệt trong tiêu chuẩn chẩn đoán. Trong tương lai, cùng với sự tiến bộ của nghiên cứu về hội chứng trao chuyển hóa, tiêu chuẩn chẩn đoán cũng thay đổi từng chút một.

Ngoài ra, chỉ số đường huyết lúc đói là hạng mục khác giữa tiêu chuẩn chẩn đoán của Nhật Bản và của IDF. Tại Nhật Bản, chỉ số đường huyết lúc đói là 110 mg/ dL, nhưng IDF lại đưa ra là 100 mg/ dL.

>> Xem thêm câu hỏi: Khi nào một người được chẩn đoán mắc hội chứng chuyển hóa?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Khái niệm về bệnh này đã được đưa ra một khoảng thời gian trước đây, nhưng gần đây đã trở nên rõ ràng rằng nguyên nhân thúc đẩy xơ vữa động mạch là sự tích lũy quá mức của chất béo nội tạng. Ngoài ra, nguyên nhân của sự tích tụ quá nhiều chất béo nội tạng là do năng lượng hấp thu vượt quá mức tiêu thụ năng lượng, nghĩa là ăn quá nhiều và thiếu tập thể dục, nhưng gần đây, hiện tượng như vậy đã bắt đầu xảy ra trên quy mô toàn cầu.

>> Xem thêm câu hỏi: Có tiêu chuẩn chẩn đoán Hội chứng chuyển hóa nào khác ở nước ngoài không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Những ảnh hưởng đối với sức khỏe do tích tụ chất béo nội tạng là đáng chú ý khi diện tích bề mặt của chất béo nội tạng vượt quá100 cm vuông. Và nếu quy đổi “diện tích bề mặt của chất béo nội tạng 100cm vuông” thành chu vi vòng eo sẽ tương đương 85cm ở nam giới và 90cm ở phụ nữ.

>> Xem thêm câu hỏi: Hội chứng chuyển hóa có phải là bệnh mới không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Diện tích bề mặt chất béo nội tạng 100 cm vuông chỉ là một khoảng tiêu chuẩn và được biết rằng chất béo nội tạng càng nhiều thì nguy cơ mắc bệnh xơ vữa động mạch càng cao. Do đó, ngay cả khi không đúng với giá trị tiêu chuẩn chẩn đoán, cũng không thể đảm bảo rằng đó không phải là “hội chứng chuyển hóa”.

>> Xem thêm câu hỏi: Tại sao giá trị tiêu chuẩn của chu vi vòng eo khác nhau giữa nam và nữ?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Là một loại chất béo có trong máu, gan và còn được gọi là chất béo trung tính. Chủ yếu được tạo ra bằng sự biến đổi carbs. Mặc dù LDL cholesterol (cholesterol xấu) được biết đến như một loại lipid huyết thanh làm tăng tốc độ tiến triển của xơ vữa động mạch, hội chứng chuyển hóa là một bệnh có khả năng xảy ra do nhiều triglyceride hơn LDL cholesterol. Tăng triglyceride máu của nó là một loại tăng lipid máu, thúc đẩy xơ vữa động mạch tiến triển. Khi lượng đường trong máu cao, mức chất béo trung tính có xu hướng cao.

>> Xem thêm câu hỏi: Sẽ an toàn nếu chu vi vòng eo nhỏ hơn giá trị tiêu chuẩn đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

HDL Cholesterol là một loại chất béo khác trong máu và đây là cholesterol tốt. HDL Cholesterol hoạt động giúp lấy cholesterol đã xâm nhập vào thành mạch máu trở lại gan. “Hạ cholesterol máu”, làm giảm lượng cholesterol tốt này, cũng là một loại tăng lipid máu và cũng thúc đẩy chứng xơ vữa động mạch tiến triển. Trong hội chứng chuyển hóa, HDL cholesterol có xu hướng thấp, ngay cả khi lượng đường trong máu cao.

>> Xem thêm câu hỏi: “Triglyceride” trong tiêu chuẩn chẩn đoán là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Một là không quên kiểm tra bệnh. Hội chứng chuyển hóa là một bệnh không có triệu chứng nào cả. Và ngay cả khi bệnh nhân bị tăng lipid máu, huyết áp cao hoặc tiểu đường do hội chứng chuyển hóa, những bệnh đó cũng có các triệu chứng chủ quan thấp, vì vậy nếu xét nghiệm không được thực hiện, người bệnh sẽ không biết bệnh có trở nên tốt hơn hay xấu đi.

Và một điều quan trọng hơn là, tất nhiên, không được bỏ bê việc điều trị.

>> Xem thêm câu hỏi: “HDL cholesterol” là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Nền tảng của hội chứng chuyển hóa là sự tích tụ chất béo nội tạng. Vì vậy, giảm chất béo nội tạng là cơ sở của điều trị.

>> Xem thêm câu hỏi: Nếu được chẩn đoán mắc hội chứng chuyển hóa thì phải làm thế nào thì tốt?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Chất béo được sử dụng để tiết kiệm năng lượng hỗ trợ cho tình trạng đói khi năng lượng hấp thu vượt quá mức tiêu thụ năng lượng. Bởi vì điều này, chất béo thường được so sánh với tiền gửi. Và chất béo dưới da được so sánh với tiền gửi định kỳ, chất béo nội tạng giống như tiền gửi thông thường.

Chất béo dưới da cần thời gian để tích lũy, nhưng nó không dễ dàng giảm đi một khi đã tích lũy. Mặt khác, chất béo nội tạng dễ dàng tích lũy và tiêu thụ. Vì vậy, nếu bạn di chuyển cơ thể và tăng mức tiêu thụ năng lượng, bạn có thể giảm nó dễ dàng hơn so với chất béo dưới da.

Nói cách khác, di chuyển cơ thể, tập thể dục là cách tốt nhất để giảm chất béo nội tạng. Tất nhiên, đồng thời điều cần thiết là giảm lượng năng lượng hấp thu.

>> Xem thêm câu hỏi: Hãy cho biết về việc điều trị hội chứng chuyển hóa?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Tình trạng xơ vữa động mạch sẽ tiến triển nhanh hơn nhiều. Ngoài ra, bệnh tiểu đường, tăng lipid máu và tăng huyết áp…có thể trở nên tồi tệ hơn.

>> Xem thêm câu hỏi: Làm thế nào để có thể giảm chất béo nội tạng?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Việc tự quản lý bệnh tiểu đường khi đi du lịch không có gì quá đặc biệt mà vẫn liên quan đến những việc thực hiện hàng ngày như ăn uống với sự cân nhắc về số lượng và cân bằng thực phẩm, tránh thiếu vận động, ngăn ngừa và đối phó với hạ đường huyết. Vì mô hình cuộc sống của bệnh nhân thường thay đổi trong khi đi du lịch, người ta cho rằng lượng đường trong máu có thể dễ bị xáo trộn, vì vậy hãy chắc chắn học cách xử lý những thay đổi về lượng đường trong máu. Nếu không tự tin vào kiểu tự quản lý này (ví dụ, bệnh nhân mới bắt đầu điều trị bằng insulin và vẫn lo lắng về cách đối phó với lượng đường trong máu thấp…), bệnh nhân có thể hoãn kế hoạch du lịch của bản thân.

>> Xem thêm câu hỏi: Điều gì xảy ra nếu không điều trị hội chứng chuyển hóa?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Dưới đây là một số lưu ý.

+ Hãy kiểm tra xem còn quên gì liên quan đến việc tự quản lý bệnh tiểu đường trước khi khởi hành không

+ Luôn mang theo thuốc, máy đo đường huyết và glucose phòng hạ đường huyết bên mình

+ Hãy cẩn thận về việc ăn quá nhiều và thiếu tập thể dục

+ Hãy đi đôi giày thường mang và quen thuộc

+ Hãy lập một lịch trình phù hợp với khả năng, tình trạng của bản thân

>> Xem thêm câu hỏi: Việc tự quản lý bệnh tiểu đường khi đi du lịch thì như thế nào?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Hãy chắc chắn chuẩn bị insulin dự phòng. An toàn hơn là mang theo nhiều vật phẩm có thể sử dụng hơn như kim tiêm và giấy thử để đo lượng đường trong máu nhiều hơn vào ngày đi du lịch. Ngoài ra, glucose, đường cho hạ đường huyết và thẻ ghi chú (có tên, thông tin liên lạc, bệnh viện…) cũng nên mang theo.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh nhân tiểu đường nên làm gì khi đi du lịch?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Đúng vậy. Tuy nhiên, những thứ này thường được đặt trong một túi du lịch và túi thường được đặt trong khoang hành lý của cốp xe hoặc xe buýt tham quan. Khi xảy ra các vấn đề về sức khỏe, bệnh nhân không thể đối phó ngay lập tức. Do đó, thay vì một chiếc túi du lịch, hãy bỏ nó vào túi hoặc túi xách cầm tay để luôn có thể lấy ra ngay lập tức.

Trong chuyến du lịch mùa hè, hãy cẩn thận về nhiệt độ lưu trữ của insulin và giấy kiểm tra đo đường huyết. Không để trong xe, đặc biệt là khi đỗ xe vào ban ngày.

>> Xem thêm câu hỏi: Những đồ đạc bệnh nhân tiểu đường cần chuẩn bị khi đi du lịch là gì?

https://kienthuctieuduong.vn

Chia sẻ

Bệnh nhân tiểu đường không nên quá lo lắng mà hãy tận hưởng chuyến đi của mình. Tuy nhiên, cũng có 1 số lưu ý như sau cho các bệnh nhân đi du lịch nước ngoài:

– Cách xử lý về chênh lệch múi giờ đối với bệnh nhân đang điều trị bằng thuốc (đặc biệt là điều trị insulin)

– Cần mang những đồ vật cần thiết như máy đo đường huyết hoặc thuốc lên máy bay

– Không để cơ thể mất nước trên các chuyến bay dài

– Cần phân bố đồ vật cần thiết cho trị liệu ở nhiều vị trí khác nhau

– Thuốc hay sử dụng khi cơ thể ngất đi, nội dung về tình trạng và phương pháp trị bệnh cần ghi sẵn sang tiếng anh

– Nên tiêm phòng khi đến những nơi cần thiết

– Không ăn, uống đồ sống, đá hay nước lã

>> Xem thêm câu hỏi: Việc “luôn mang theo thuốc, máy đo đường huyết và glucose phòng hạ đường huyết bên mình khi đi du lịch” giống như chú ý thông thường khi đi ra ngoài đúng không?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Nếu bệnh nhân đang không điều trị bằng thuốc thì không có vấn đề gì. Còn trong trường hợp sử dụng thuốc, tùy theo mỗi loại thuốc, sẽ có sự ảnh hưởng sẽ khác nhau.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh nhân tiểu đường cần lưu ý những điểm gì khi đi du lịch nước ngoài?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Những dụng cụ cần thiết đối với bệnh nhân tiểu đường chắc chắn phải mang bên mình trong các chuyến bay, kể cả chuyến bay ngắn. Nguyên nhân gồm các ý như sau:

– Thứ nhất, không thể chắc chắn rằng hạ đường huyết sẽ không xảy ra kể cả trong chuyến bay ngắn. Vì chuyến bay có thể kéo dài do thời tiết xấu, nên không có gì là chắc chắn. Cũng có những trường hợp hành lý kí gửi chưa được vận chuyển đến sân bay khi máy bay hạ cánh, hoặc có thể đã bị thất lạc trên chuyến bay khác.

– Hơn nữa, trong quá trình vận chuyển hành lý trên không, insulin nằm trong hành lý sẽ bị đông cứng và không thể sử dụng được. Tùy lộ trình bay và máy bay, nên các vấn đề có thể xảy ra khác nhau. Vì vậy, để đảm bảo không một vấn đề nào xảy ra trong chuyến du lịch, bệnh nhân cần đảm bảo thuốc, máy đo đường huyết,… luôn ở bên mình.

>> Xem thêm câu hỏi: Chênh lệch múi giờ sẽ ảnh hưởng như thế nào đối với bệnh nhân tiểu đường?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Khi máy bay di chuyển ở vùng khí áp thấp, độ ẩm trên máy bay sẽ thấp hơn độ ẩm dưới mặt đất nên cơ thể dễ khô và bị mất nước nếu bệnh nhân tiểu đường không uống đủ nước. Theo đó, bệnh nhân có thể mắc triệu chứng huyết khối tĩnh mạch sâu.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh nhân tiểu đường có cần phải mang máy bơm insulin lên máy bay hay không?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Huyết khối tĩnh mạch sâu là hiện tượng thuyên tắc phổi do tắc động mạch tĩnh sâu. Cơ bắp nằm trên thành động mạch giãn ra và co lại như cao su, nhờ đó máu sẽ di chuyển hết các bộ phận trong cơ thể. Tuy nhiên, trong thành tĩnh mạch lại không chứa cơ bắp. Vì vậy, nếu cơ thể không hoạt động trong thời gian dài thì sẽ không có các kích thích vật lý từ bên ngoài lên mạch máu. Theo đó, sự lưu thông máu sẽ bị nghẽn lại. Sau đó, ở thành tĩnh mạch sẽ tạo ra cục máu đông. Cục máu đông đó sẽ bong ra khỏi thành mạch, di chuyển đến dòng máu và có thể bị đưa đến một vị trí khác. Ở vị trí mà cục máu đông di chuyển xuất hiện các triệu chứng như: nhồi máu cơ tim, tai biến mạch máu não, thuyên tắc động mạch phổi. Ở điều kiện bình thường, tần suất mắc bệnh nhồi máu có tim và tai biến mạch máu não không cao hơn so với thuyên tắc động mạch phổi, nhưng trong điều kiện đặc biệt ví dụ như vừa trải qua một ca phẫu thuật dài, thuyên tắc động mạch phổi sẽ dễ xảy ra hơn.

Trong điều kiện không khí thiếu độ ẩm và phải ngồi ở chỗ ngồi chật hẹp trong thời gian dài như trên máy bay, lượng nước trong máu sẽ bị mất đi, máu dễ bị đông lại dẫn đến tình trạng thuyên tắc động mạch phổi. Đó chính là triệu chứng huyết khối tĩnh mạch sâu.

>> Xem thêm câu hỏi: Tại sao bệnh nhân tiểu đường cần tránh mất nước khi trên máy bay?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Triệu chứng huyết khối tĩnh mạch sâu dễ xảy ra có hiện tượng máu đóng cục. Đối với bệnh nhân tiểu đường, lượng đường huyết cao cũng làm nguy cơ mắc chứng huyết khối tĩnh mạch. Hơn nữa, khi xơ vữa động mạch (một biến chứng của tiểu đường) xảy ra, huyết khối có xu hướng bị tắc, dẫn đến tình trạng cục máu đông.

Ngoài bệnh nhân tiểu đường, những đối tượng có lượng cholesterol trong máu cao, đối tượng cao huyết áp, đối tượng sử dụng thuốc tránh thai, đang trong quá trình mang thai, ở thời kỳ hậu sinh con thì đều dễ mắc chứng huyết khối tĩnh mạch sâu.

>> Xem thêm câu hỏi: Có thể giải thích rõ hơn về triệu chứng huyết khối tĩnh mạch sâu?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Không phải cứ ngồi hạng phổ thông (economy class) là có nguy cơ mắc bệnh. Thực tế, trên máy bay, các khoang chỗ ngồi đều có độ ẩm thấp như nhau.

Cũng có các phương pháp phòng tránh huyết khối tĩnh mạch trong du khách hàng không nên bệnh nhân cần tích cực áp dụng các phương pháp này khi đi máy bay.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh nhân tiểu đường dễ mắc triệu chứng huyết khối tĩnh mạch sâu?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Thứ nhất, bệnh nhân cần phải uống đủ nước (nước trắng), không nên uống cà phê hoặc bia, vì 2 loại nước này chứa tác dụng phụ. Có nhiều bệnh nhân sẽ không muốn uống nước vì ghế ngồi không tiện cho việc đi vệ sinh. Vì vậy, khi đặt vé hãy đặt ghế ngồi ngay lối đi. Mỗi lần đi vệ sinh cũng là một lần cơ thể vận động nên có thể phòng ngừa huyết khối tĩnh mạch. Ngoài ra, khi ngồi, bệnh nhân cần có ý thức vận động chân bằng cách đưa chân lên xuống một cách nhẹ nhàng.

>> Xem thêm câu hỏi: Có phải nhất thiết phải ngồi hạng thương gia nếu không muốn mắc chứng huyết khối tĩnh mạch sâu?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Vì khi để các dụng cụ ở cùng một chỗ, nếu bệnh nhân chẳng may làm mất thì mọi chuyện sẽ rất khó khăn. Đặc biệt, insulin là thuốc hay sử dụng, nên bệnh nhân cần dự trữ insulin ở một vị trí khác phòng trường hợp bị mất.

>> Xem thêm câu hỏi: Phương pháp phòng tránh huyết khối tĩnh mạch sâu?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Cái này bệnh nhân nên nhờ bác sĩ hoặc y tá ở bệnh viện mình điều trị viết. Sẽ có một form bằng tiếng anh với đầy đủ các nội dung như: ngày tháng năm, tình trạng bệnh, phương pháp điều trị, các chỉ số xét nghiệm…

>> Xem thêm câu hỏi: Vì sao không nên để các dụng cụ cần thiết cho điều trị tiểu đường ở một vị trí mà nên cất ở nhiều vị trí khác nhau?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Điều đó còn phụ thuộc vào địa điểm du lịch. Thông thường, khi đi du lịch ở những nước đang phát triển, bệnh nhân cần tiêm vacxin các loại bệnh như: viêm gan, sốt vàng, chó dại, dịch tả,…Có những trường hợp vacxin sẽ không đạt hiệu quả nếu bệnh nhân không tiêm khoảng từ 2-3 lần. Ngoài ra, sau khi tiêm sẽ có một số tác dụng phụ xảy ra như sốt nhẹ, vì vậy, bệnh nhân không nên tiêm phòng ngay trước khi đi du lịch mà cần lên kế hoạch tiêm phòng thật sớm.

>> Xem thêm câu hỏi: Ở các mục trước có nói rằng tình trạng bệnh cùng với phương pháp trị liệu nên viết bằng tiếng anh. Cái này tự người bệnh tiểu đường viết hay sao?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Khi bệnh nhân tiểu đường ở trong nước, tình trạng hạ đường huyết có thể xảy ra. Dù bệnh nhân có ý thức được bản thân bị hạ đường huyết nhưng vẫn không thể lặn lên được do áp lực của nước. Vì vậy, nếu cấp cứu tại chỗ cũng không thể kịp. Đối với bệnh nhân tiểu đường, lặn có bình khí là điều cấm kỵ. Tuy vậy, nếu bệnh nhân hiểu được mức độ nguy hiểm của việc lặn dưới nước và nắm rõ phương pháp phòng ngừa hạ đường huyết, thì bác sĩ cũng không thể ngăn cấm được việc lặn. Nhưng bệnh nhân hãy làm theo các lời khuyên như: tuyệt đối phải lặn theo nhóm hoặc theo cặp, không được lặn quá sâu.

>> Xem thêm câu hỏi: Người bệnh tiểu đường cần tiêm phòng trong những trường hợp nào?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Điều trị bệnh tiểu đường phần lớn phụ thuộc vào cách tự quản lý cuộc sống của mỗi người. Việc bệnh nhân cố gắng duy trì các phương pháp điều trị về chế độ ăn uống, luyện tập thể dục hay trị liệu bằng thuốc trở thành động lực sống, mục đích sống mỗi ngày, từ đó ý thức mong muốn tiếp tục điều trị bệnh được nâng cao. Tất nhiên, mục đích sống của mỗi người khác nhau về công việc, gia đình…Tuy nhiên, sẽ có không ít người cảm nhận mục đích sống của họ mất đi khi bước vào giai đoạn không thể chăm sóc con cái, giai đoạn nghỉ hưu. Những lúc như thế, bệnh nhân cần duy trì sở thích bản thân, xác định mục tiêu sống rõ ràng, từ đó mới có thể cảm nhận được sự tràn đầy sức sống và tạo cho bản thân khao khát được điều trị bệnh vào ngày mai.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh nhân tiểu đường có nên lặn dưới nước?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Không chỉ có bệnh nhân tiểu đường, mọi người nên từ bỏ thuốc lá. Thuốc lá là nguyên nhân làm tăng nguy cơ khởi phát, tái phát bệnh về gan, bệnh hô hấp, huyết quản, dẫn đến các bệnh như: tai biến mạch mãu não, đau tim, tắc nghẽn động mạch chi dưới. Tùy theo loại bệnh, nguy cơ mắc bệnh của người hút thuốc là gấp vài chục lần so với người bình thường. Vấn đề ở đây là sự ảnh hưởng của thuốc lá không chỉ dừng lại ở phạm vi của người thuốc lá, mà còn gây ra tác hại xấu đối với người xung quanh. Khói thuốc khi lan truyền trong không khí cũng gây ra hậu quả đáng lo ngại đối với mọi người.
Tác hại của thuốc là đối với bệnh nhân tiểu đường có liên quan tới bệnh mạch mãu não (do biến chứng bệnh tiểu đường). Thuốc lá sẽ đẩy nhanh sự khởi phát và quá trinh phát triển bệnh theo chiều hướng xấu đi.

>> Xem thêm câu hỏi: Làm thế nào để tạo sở thích cho việc điều trị bệnh tiểu đường?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Bỏ thuốc phần lớn phụ thuộc vào sự tự giác, quyết tâm của người bệnh tiểu đường. Hiện nay, trên thị trường có bán các loại thuốc giúp cai thuốc, cũng có các dịch vụ tư vấn giúp bệnh nhân bỏ thuốc lá. Bệnh nhân muốn bỏ thuốc nhưng không thể thực hiện được nên trao đổi, thảo luận với bác sĩ.

>> Xem thêm câu hỏi: Hút thuốc lá có ảnh hưởng như thế nào đến việc điều trị bệnh tiểu đường?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Bệnh nhân tiểu đường sau khi bỏ thuốc lá có thể sẽ bị béo do ăn nhiều hơn bình thường. Đúng là việc tăng cân không tốt trong quá trình điều trị bệnh tiểu đường, tuy nhiên so với tác hại của thuốc lá thì tác hại này là rất nhỏ. Điều quan trọng là bệnh nhân nên tuân thủ các nguyên tắc trong chế độ ăn uống của phương pháp điều trị bệnh tiểu đường.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh nhân tiểu đường cần làm gì nếu không thể bỏ thuốc lá?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Ở Nhật Bản, tần suất mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 của nam giới là nhiều hơn nữ giới. Nguyên nhân là do nam giới có nguy cơ béo phì cao hơn nữ giới và ở nữ giới, hormone làm tăng tính nhạy của insulin ( giảm nguy cơ kháng insulin).

Đối với tiểu đường tuýp 1, khi còn nhỏ, tỉ lệ mắc bệnh của béo gái cao hơn một ít so với bé trai.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh nhân sau khi bỏ thuốc sẽ tăng cân, điều đó có gây ảnh hưởng gì tới việc điều trị bệnh tiểu đường không?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Trước tiên, hãy bàn về Hội chứng chuyển hóa, một chủ đề rất được mọi người quan tâm ở những năm gần đây. Hội chứng chuyển hóa là tình trạng mà sự tích tụ chất béo nội tạng gây trở ngại tới hoạt động của insulin, làm tăng đường huyết, lượng cholesterol trong máu cao, tăng huyết áp, dẫn tới tình trạng xơ vữa động mạch. Tình trạng tích tụ chất béo nội tạng thường xảy ra ở nam giới nhiều hơn so với nữ giới, nên được gọi là bệnh béo phì của nam giới. Khi mỡ tích tụ trong nội tạng ngày càng nhiều, nguy cơ kháng insulin càng cao.

>> Xem thêm câu hỏi: Tần suất mắc bệnh tiểu đường ở nam giới và nữ giới khác nhau như thế nào?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Hẹp ống sống thắt lưng là hiện tượng ống sống nằm ở cột sống thắt lưng hẹp lại do tuổi già và gây chèn ép các dây thần kinh. Thường hẹp ống sống thắt lưng có các biểu hiện như đau thần kinh tọa, đi khập khiễng.

Dân số càng già, số bệnh nhân càng tăng. Và chủ yếu bệnh nhân phải điều trị tại khoa chỉnh hình.

>> Xem thêm câu hỏi: Vì sao tính nhạy của insulin ở nữ giới cao hơn so với nam giới?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Với đối tượng mắc glucoza niệu thận, dù dương tính trong xét nghiệm glucose trong nước tiểu nhưng vẫn không thể chắc chắn rằng người đó mắc bệnh tiểu đường.

Thông thường, khi lượng đường trong máu từ 160 đến 180 mg / dL trở lên, lượng đường trong máu sẽ được bài tiết qua nước tiểu (nó trở thành đường nước tiểu dương tính). Khi đối tượng ở trạng thái bài tiết đường nước tiểu mặc dù nó có lượng đường trong máu thấp, bệnh nhân thường không cần điều trị. Tuy nhiên,  có khả năng những đối tượng mắc glucoza niệu thận có thể trở thành bệnh tiểu đường thực sự, vì vậy bệnh nhân không nên hoàn toàn yên tâm mà nên thực hiện chế độ ăn uống lành mạnh.

>> Xem thêm câu hỏi: Hẹp ống sống thắt lưng là gì?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Từ trước đến nay việc tham gia bảo hiểm sau khi được chẩn đoán bệnh vẫn giới hạn (không chỉ ở các bệnh nhân tiểu đường). Nhu cầu tăng do số lượng bệnh nhân tăng, nên trên thị trường đã có sự xuất hiện của các dịch vụ mới về vấn đề bảo hiểm cho đối tượng bệnh nhân tiểu đường và bệnh nhân cao huyết áp. Trong đó có các dịch vụ không cần có các bài kiểm tra sức khỏe.

>> Xem thêm câu hỏi: Có những trường hợp dù có đường trong nước tiểu nhưng vẫn không phải là bệnh tiểu đường. Vì sao vậy?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Insulin sau được phân giải trong tụy, trước tiên sẽ bị tuyến gan hấp thu, tại đó chia thành 2 loại: loại thứ nhất nhận quá trình phân giải và loại thứ 2 sẽ lưu thông trong máu. Insulin lưu thông trong máu sẽ đưa glucose đến bộ phận cơ bắp hoặc mô mỡ. Sau đó, insulin được phân giải ở thận và đào thải ra cùng với nước tiểu. Ở thời kì suy thận, chức năng tiểu cầu thận suy giảm dần ảnh hưởng đến quá trình phân giải insulin, làm nồng độ insulin lưu thông trong máu suy giảm.
Hơn nữa, đối với các bệnh nhân bổ sung insulin bằng phương pháp tiêm, insulin sẽ không cần hấp thu ở gan và trực tiếp di chuyển và lưu thông trong máu. Vì vậy, số lượng insulin di chuyển xuống thận nhiều gây ảnh hưởng tới lượng insulin được phân giải. Như vậy, có thể nói rằng không quá cần thiết để bổ sung insulin bằng phương pháp tiêm.

>> Xem thêm câu hỏi: Có thể tham gia bảo hiểm sau khi bị chẩn đoán mắc tiểu đường hay không?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Dù trong nước tiểu có những biến đổi bất thường thì cũng không thể chắc chắn rằng cơ thể đang có sự thay đối bất thường. Ở bệnh nhân tiểu đường, dù chỉ số đường huyết cao, nếu chỉ nhìn bên ngoài hoặc ngửi mùi nước tiểu cũng không thể phát hiện những biến đổi bất thường. Đặc điểm nước tiểu của bệnh nhân tiểu đường là glucose dương tính. Nếu đối tượng không xét nghiệm thì sẽ không biết được. Trong trường hợp của người chồng, có vẻ như đã có sự di truyền bệnh tiểu đường, vì vậy cần nhanh chóng làm các xét nghiệm kịp thời.

>> Xem thêm câu hỏi: Tôi muốn biết rõ hơn về cơ chế phân giải insulin, đặc biệt, trong thời kì suy thận, sự phân giải insulin diễn ra chậm chạp, làm suy giảm insulin cần thiết cho cơ thể. Nguyên lý đó được diễn ra như thế nào?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Insulin được sinh ra tại các tiểu đảo tụy langerhans của tuyến tụy. Phương pháp cấy ghép tụy đối với bệnh nhân tiểu đường là phương pháp sử dụng toàn bộ tuyến tụy của những người đã chết, rồi cấy lên bệnh nhân tiểu đường. Vì vậy, đây là cuộc phẫu thuật trên diện rộng, chứa nhiều rủi ro cho cơ thể bệnh nhân và sau phẫu thuật có khả năng xảy ra phản ứng thải trừ. Vì vậy, các nhà nghiên cứu đã đưa ra một phương pháp đơn giản hơn đó chính là chỉ cấy ghép tiểu đảo tụy langerhans. Gần đây, phương pháp này đã được áp dụng cho việc điều trị trên thực tế. Đây là phương pháp điều trị mà bệnh nhân có cảm giác như đang truyền nước, rủi ro cho cơ thể ít hơn và sẽ sử dụng loại thuốc gây ức chế phản ứng thải trừ sau phẫu thuật. Các nhà nghiên cứu cũng đã giải quyết được vấn đề: cần cấy ghép tủy bao lâu thì insulin mới có thể tự bài tiết trong cơ thể.

Nếu muốn cấy ghép tủy trước tiên bệnh nhân cần xem xét lại tình trạng điều trị bệnh tiểu đường của bản thân. Tất nhiên, điều trị bằng phương pháp cấy tủy có ưu điểm là có thể điều trị triệt để bệnh tiểu đường, tuy nhiên vì đây là một cách điều trị mới nên sẽ có những rủi ro ngoài sức tưởng tượng. Nếu tình trạng bệnh vẫn đang tiến triển tốt bằng phương pháp điều trị insulin, bệnh nhân nên tiếp tục ưu tiên điều trị insulin. Ngoài ra cũng có một số điều kiện về tuổi tác, về tình trạng sức khỏe của bản thân (ngoài tiểu đường, thì có mắc bệnh khác có nguy cơ ảnh hưởng đến điều trị cấy ghép hay không).

>> Xem thêm câu hỏi: Chồng tôi sau khi uống rượu và tập thể thao với cường độ mạnh thì có xuất hiện những dấu hiệu lạ trong nước tiểu: có đường và bong bóng. Dù trước đó, khi khám sức khỏe, anh ấy không bị chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường, nhưng do bố và bà nội đều mắc bệnh tiểu đường nên có phần lo lắng. Bác sĩ có thể giải thích rõ hơn về đặc điểm nước tiểu của bệnh nhân tiểu đường được không?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Nguyên nhân bệnh nhân tiểu đường dễ mắc chứng bedsore (chứng thối loét vì nằm liệt giường) là việc không thể kiếm soát tốt lượng đường huyết sẽ ảnh hưởng tới quá trình tái tạo tế bào da. Theo đó lượng máu ngoại lưu thông ngoại vi suy giảm nên cần có thời gian để điều trị dứt điểm bệnh.

>> Xem thêm câu hỏi: Bệnh nhân tiểu đường nào cũng có thể cấy ghép tụy đúng không? Điều kiện để cấy ghép tụy là gì?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Do không được điều trị trong 10 năm nên tình trạng tiểu đường đang tiến triển theo chiều hướng xấu đi. Vì vậy, độ nguy hiểm của bệnh đã vượt qua mức độ “chỉ cần giảm cân thì bệnh sẽ khỏi” mà bác sĩ ngày xưa đã nói. Hơn nữa, nếu cân nặng tự sụt giảm mà không phải do bản thân thực hiện biện pháp giảm cân thì đó là triệu chứng thể hiện tình trạng bệnh tiểu đường đang dần tồi tệ hơn, sự bài tiết insulin giảm sút.

Hơn nữa, gần đây bệnh nhân hay cảm thấy khô họng, khát nước, chứng tỏ lượng đường trong máu khá cao. Vì vậy, cần nhanh chóng khám sức khỏe để hiểu rõ hơn về tình trạng sức khỏe của bản thân.

>> Xem thêm câu hỏi: Tại sao bệnh nhân tiểu đường dễ mắc chứng bedsore (chứng thối loét vì nằm liệt giường)?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Vì bố và ông bệnh nhân đều mắc bệnh tiểu đường nên tỉ lệ mắc bệnh tiểu đường ở người bệnh rất cao. Tuy nhiên, không hẳn người bệnh sẽ mắc bệnh tiểu đường thai kỳ. Vì bệnh tiểu đường thai kỳ là sự rối loạn chuyển hóa glucose phát hiện trong lần đầu tiên mang thai. Người bệnh có thể gặp rối loạn chuyển hóa glucose từ trước khi mang thai, và đó gọi là tình trạng “mang thai khi bị bệnh tiểu đường”.

Vì bệnh nhân có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường cao, nên hãy tập thể dục và thay đổi chế độ ăn uống lành mạnh ngay từ giờ. Bên cạnh đó, cần kiểm soát tốt cân nặng với chỉ số khối tiêu chuẩn. Người bệnh hãy làm xét nghiệm đường huyết trước khi mang thai và nếu được chẩn đoán có lượng đường trong máu cao, hãy kiểm soát tốt hơn.

>> Xem thêm câu hỏi: 10 năm trước tôi đã được bác sỹ nói rằng mình bị tiểu đường trong một cuộc xét nghiệm nước tiểu ở khoa nội. Sau đó, tôi chính thức được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường theo kết quả của cuộc xét nghiệm uống đồ ngọt và lấy mẫu máu. Bác sĩ điều trị lúc đó nói rằng nếu tôi giảm được 10kg thì sẽ khỏi bệnh. Sau một thời gian, dù không thực hiện điều trị bệnh, tôi đã giảm được từ 82 xuống 65. Nếu đúng như lời bác sĩ, tôi đã khỏi bệnh rồi đúng không? Ngoài ra, gần đây tôi luôn cảm thấy khác nước? Như vậy, thì có vấn đề gì không?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Trước hết, mọi người nên hiểu rằng biến chứng do bệnh tiểu đường được hiểu là những căn bệnh xxx gây ra bởi bệnh tiểu đường. Nói cách khác, ngay cả khi không chịu ảnh hưởng của bệnh tiểu đường, bệnh xxx cũng có thể xảy ra. Điều đó có nghĩa là những người mắc bệnh tiểu đường cũng có thể bị bệnh xxx vì những lý do khác ngoài tăng đường huyết. Đôi khi nguyên nhân rõ ràng và đôi khi không. Có nhiều bệnh có thể là nguyên nhân của rối loạn thần kinh, do đó khi bị rối loạn thần kinh khó xác định được nguyên nhân cụ thể so với các biến chứng khác. (Khó chắc chắn liệu bệnh tiểu đường có phải là nguyên nhân gây rối loạn thần kinh hay không)

– Có phải khi biến chứng thần kinh xuất hiện là tình trạng bệnh tiểu đường đã trở nên tồi tệ?

Câu trả lời là không hẳn bệnh tiểu đường trở nên tồi tệ, mà xét đến khía cạnh có vẻ việc điều trị trước đó của người bệnh là không đủ và bệnh nhân cần kiểm soát bệnh tiểu đường chặt chẽ hơn.

– Điều trị biến chứng thần kinh tiểu đường?

Bệnh nhân cần kết hợp 2 phương thức để điều trị rối loạn thần kinh: điều trị tập trung vào kiểm soát lượng đường trong máu và điều trị triệu chứng. Việc điều trị triệu chứng ngoài sử dụng thuốc giảm đau, một số thuốc chống loạn nhịp tim và thuốc thảo dược có thể được sử dụng. Bên cạnh đó, thuốc chống co giật và thuốc chống trầm cảm có thể mang lại hiệu quả trong một vài trường hợp. Người bệnh có thể bị trầm cảm do sự đau đớn của rối loạn thần kinh có thể ảnh hưởng đến tinh thần. Việc điều trị này có thể kéo dài, tuy nhiên có thể cải thiện sức khỏe bệnh nhân, nên bệnh nhân nên duy trì và tiếp tục điều trị.

– Biến chứng thần kinh tiểu đường xuất hiện như thế nào?

Mặc dù triệu chứng xuất hiện nhiều ở bàn chân, nhưng bệnh lý thần kinh tiểu đường có thể cùng ảnh hưởng đến tay và chân cùng lúc.

Bệnh nhân bị tiền tiểu đường trong nhiều năm có thể xuất hiện các biến chứng tiểu đường. Ngoài ra, như đã đề cập ngay từ đầu, tê chân cũng xảy ra với các bệnh khác ngoài bệnh tiểu đường, ví dụ như tuần hoàn kém, hẹp ống sống…Có thể các triệu chứng của bệnh lý thần kinh có thể xuất hiện do các nguyên nhân nhỏ tương ứng của chúng chồng chéo lên nhau.

– Bệnh thần kinh do tiểu đường được chẩn đoán như nào?

Bệnh lý thần kinh không được chuẩn chấn đoán cụ thể bằng xét nghiệm máu mà được chẩn đoán toàn diện từ triệu chứng lâm sàng như tê bì chân tay…

Tóm lại, nếu lượng đường trong máu được kiểm soát tốt, không thể nói khả năng bệnh thần kinh sẽ không xảy ra dạng bệnh thần kinh tiểu đường. Tuy nhiên, không có nghi ngờ rằng nó ít có khả năng xảy ra khi bệnh nhân kiểm soát lượng đường trong máu gần với mức bình thường.

Đối với mối quan hệ với thời gian mắc bệnh, thời gian mắc bệnh tiểu đường càng lâu thì khả năng xảy ra càng cao. Tuy nhiên, trong trường hợp bệnh tiểu đường tuýp 2, có một khoảng thời gian tiềm ẩn bệnh trước khi được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường, và thời gian, mức độ tiềm ẩn ở từng người khác nhau, do đó đối với từng người bệnh lý thần kinh có thể xuất hiện hoặc không xuất hiện đầu tiên.

>> Xem thêm câu hỏi: Bố tôi và ông tôi bị tiểu đường. Bản thân tôi cũng có cảm giác lượng đường huyết tăng sau bữa ăn, nhưng sau khi xét nghiệm thì không có vấn đề gì cả. Tuy nhiên, tôi luôn lo lắng về khả năng khởi phát bệnh trong tương lai, đặc biệt là tiểu đường thai kỳ. Mong bác sĩ cho tôi lời khuyên.

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Nếu bệnh nhân không có triệu chứng rối loạn thần kinh do xơ vữa động mạch và sử dụng thiết bị làm ấm chân chân một cách phù hợp (điều chỉnh độ ấm và thời gian phù hợp) thì sẽ không có vấn đề gì đáng lo ngại. Về máy massage chân có liên quan đến bệnh tim, nên bệnh nhân nên tham khảo lời khuyên của bác sĩ điều trị. Hơn nữa, những loại máy này được các công ty bán ra, tùy vào tính năng của từng loại máy, giá tiền sẽ khác nhau, vì vậy, bệnh nhân cần xem xét kỹ càng trước khi mua.

>> Xem thêm câu hỏi: Có phải bệnh thần kinh tiểu đường là biến chứng đầu tiên xuất hiện ở bệnh nhân tiểu đường?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Hỏi: Tình cờ, tôi được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường, và nhìn lại trong một năm vừa qua tôi đã có những dấu hiệu không khỏe mạnh. Tôi đã tăng 10kg trong một năm và có vẻ nhìn tôi già đi nhiều, thực tế tôi 48 tuổi. Cuộc sống của tôi rất bận rộn và rất khó có thời gian nghỉ ngơi. Và tôi thường có thói quen hút thuốc, không uống rượu nhưng thường uống đồ ngọt và nước trái cây, tôi rất lo lắng vì được biết điều này làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, trước đó tôi không quan tâm đến vấn đề này nhiều. Tôi thường ăn cơm nhà vào buổi tối nhưng thường ăn đồ ăn sẵn vào ban ngày. Tối có thói quen ăn mặn và uống cà phê. Có phải tôi nên bắt đầu thay đổi thói quen từng chút một như thay đổi thói quen ăn uống bên ngoài bằng việc mang cơm hộp ăn trưa làm tại nhà? Ngoài ra, tôi muốn nghiên cứu thêm về chế độ ăn ít muối và thực phẩm? Cho tôi xin thêm một vài tư vấn về cách ăn uống bệnh tiểu đường được không?

Đáp: Việc chuẩn bị bữa trưa rất tốt và có rất nhiều gợi ý về chế độ ăn uống dành cho người tiểu đường, người bệnh có thể tham khảo thêm và thiết lập chế độ ăn cho riêng mình.

>> Tham khảo chi tiết: chế độ ăn uống cho người tiểu đường

Tuy nhiên, người bệnh nên đến bệnh viện để điều trị càng sớm càng tốt. Vì bệnh tiểu đường là một bệnh đáng sợ tiến triển không có triệu chứng, nên bệnh nhân nên được theo dõi và nhận tư vấn từ bác sĩ.

>> Xem thêm câu hỏi: Theo bác sĩ, người bệnh tiểu đường có nên sử dụng thiết bị massage chân không?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Mùa đông thời tiết thường lạnh khô, vì vậy loại da khô dễ bị trầy xước. Khi già đi, chức năng giữ ẩm cho da cũng bị ảnh hưởng. Triệu chứng này không hẳn là do ảnh hưởng của bệnh tiểu đường. Nhưng cần cẩn thận các triệu chứng như đổ mồ hôi bất thường, có liên quan đến rối loạn ngoại biên và rối loạn thần kinh tự chủ. Chỉ số HbA1c của người bệnh rất tốt, có vẻ người bệnh đã kiểm soát tốt bệnh tiểu đường của mình.

>> Xem thêm câu hỏi: Câu hỏi về cách thay đổi thói quen ăn uống cho người tiểu đường?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Rất khó để xác định số lượng carbohydrate theo lượng tiêm, nhưng trước tiên bệnh nhân nên xem xét xem có cần phải thay đổi chế độ ăn uống / liệu pháp insulin hay không. Với tiền sử bệnh tiểu đường tuýp 1 trong 23 năm và HbA1c 6,2 – 7,0%, có thể đánh giá rằng việc điều trị không quá tệ đến mức phải xem xét lại phương pháp điều trị. Tuy nhiên, bệnh nhân cũng nên tham khảo ý kiến ​​bác sĩ của bạn. Việc tính toán lượng carbohydrate, người bệnh có thể tham khảo thêm ý kiên của các chuyên gia dinh dưỡng.

>> Xem thêm câu hỏi: Vào mùa đông, người bệnh thường bị trầy xước da, đó có phải là biến chứng bệnh tiểu đường? HbA1c trung bình một năm là 5,4. (40 tuổi , nam)

https://kienthuctieuduong.vn/

 

Chia sẻ

Thể ketone được tạo ra khi cơ thể không thể sử dụng glucose như là nguồn năng lượng chính do lượng insulin không đủ, làm cho chất béo được phân giải và 1 nguồn năng lượng mới được tạo ra. Đối với bệnh nhân tiểu đường tuýp 2, do có thể duy trì khả năng bài tiết insulin, nên thể ketone không được sinh ra. Ngược lại, đối với bệnh nhân tiểu đường tuýp 1, sự bài tiết insulin là rất ít dẫn đến tình trạng dễ sản sinh thể ketone.

>> Xem thêm câu hỏi: Tôi là phụ nữ mắc bệnh tiểu đường tuýp 1. Chế độ ăn uống hấp thu 1440 kcal mỗi ngày, và điều trị bằng insulin tác dụng nhanh và Lantus (hay còn gọi là insulin glargine, dạng nhân tạo của một loại hormone được tạo ra trong cơ thể). Tôi thường tiêm 4 mũi: 6 đơn vị insulin vào buổi sáng, buổi chiều, tối trước mỗi bữa ăn và 12 đơn vị insulin trước lúc đi ngủ. HbA1c của tôi là 6.2〜7.0%.Vậy tôi nên hấp thu lượng carbohydrate như thế nào?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Số tiền điều trị sẽ phụ thuộc tùy vào mức độ điều trị. Nếu chỉ mắc bệnh tiểu đường, 1 lần tiêm 4 lần insulin, 1 tháng sẽ phải chịu 30% số tiền điều trị, rơi từ khoảng 10000 đến 15000 yên.

>> Xem thêm câu hỏi: Tại sao thể ketone trong nước tiểu của bệnh nhân tiểu đường tuýp 1 nhiều hơn so với bệnh nhân tiểu đường tuýp 2?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Bệnh nhân tiểu đường kèm xơ gan có đặc điểm bệnh là: glucose có trong thức ăn sẽ di chuyển xuyên qua tuyến gan nên đường huyết tăng cao rõ rệt. Ngược lại, gluconeogenesis trong tuyến tụy giảm dần nên chỉ số đường huyết khi khoảng cách giữa các bữa ăn dài chẳng hạn như mới ngủ dậy thấp. Bệnh nhân cần chú ý đến tình trạng hạ đường huyết khi điều trị insulin. Hơn nữa, do ảnh hưởng huyết áp mạch chức năng lá lách tăng lên và tuổi thọ các tế bào hồng cầu ngăn hơn. Do đó, mức HbA1c giảm gây khó khăn cho việc đánh giá chính xác chỉ số kiểm soát đường huyết.

>> Xem thêm câu hỏi: Đối với bệnh nhân tiểu đường tuýp 1 là trẻ em nên không phải trả tiền cho quá trình điều trị. Tuy nhiên, khi trưởng thành, đứa trẻ đó phải trả với số tiền bao nhiêu?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ

Nếu vợ hoặc chồng là bệnh nhân tiểu đường thì con cái khi sinh ra có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường ít hơn so với trường hợp cả 2 vợ chồng đều mắc bệnh tiểu đường.

Tuy nhiên, hiện nay bệnh tiểu đường đã có nhiều phương pháp kiểm soát nên không cần phải lo lắng quá mức đến khả năng di truyền bệnh. Điều quan trọng là sau khi sinh con, bệnh nhân cần phải chăm sóc con cẩn thận để tránh mắc bệnh. Trong trường hợp con mắc bệnh, cần nghiêm túc điều trị bệnh cho con.

>> Xem thêm câu hỏi: Nếu bị tiểu đường và xơ gan cùng một lúc, người bệnh cần chú ý điều gì?

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ
Đường huyết thường xuyên tăng cao ảnh hưởng xấu đến sức khỏe, nhưng nếu vội vàng áp dụng các cách hạ đường huyết nhanh, người bệnh có thể phải đối mặt với nhiều rủi ro như hạ đường huyết cấp tính nguy hiểm hơn nhiều tình trạng hiện tại.

Người tiểu đường tuýp 2 muốn kiểm soát đường huyết tốt thì cần có sự kết hợp của nhiều phương pháp như sử dụng thuốc, chế độ ăn uống, tập luyện phù hợp. Đây là một quá trình lâu dài và cần sự kiên trì của bệnh nhân, nhiều người thường gặp sai lầm khi dùng các cách hạ đường huyết nhanh, gây đến những hậu quả đáng lo ngại.

1. Sai lầm của người bệnh khi dùng những cách hạ đường huyết nhanh

Để không rơi vào những cái kết đắng do không dùng đúng cách kiểm soát đường huyết, người bệnh nên tránh những sai lầm phổ biến khi áp dụng cách hạ đường huyết nhanh dưới đây:

– Ăn uống kiêng khem quá mức: Một sai lầm lớn khi kiểm soát cân nặng, loại trừ mỡ thừa ở người tiểu đường là cắt giảm hoàn toàn tinh bột ra khỏi chế độ ăn. Khi bạn không tiếp nạp tinh bột, bạn có thể bị thiếu hụt dinh dưỡng và lượng đường nhất định có trong tinh bột nhằm đảm bảo các hoạt động. Nếu bỏ bữa thường xuyên lại càng gây ra nhiều rủi ro vì sẽ khiến gan tăng cường giải phóng glucose vào máu, làm đường huyết tăng cao, đồng thời làm giảm hiệu quả của insulin gây nhiều ảnh hưởng đến kết quả điều trị.

– Tập thể dục quá sức: Nên tập những bài tập phù hợp với tình trạng bệnh của mình, không nên tập các bài tập có cường độ cao và quá sức chịu đựng gây hạ đường huyết. Trong tình trạng đó, người bệnh có thể bị hoa mắt, chóng mặt, đi đứng loạng choạng, ngất xỉu.

Cách hạ đường huyết nhanh 1
Tập thể dục quá sức gây hạ đường huyết

– Sử dụng thuốc không theo chỉ định của bác sĩ: Nhiều người có ý nghĩ rằng tăng liều thuốc là cách hạ đường huyết nhanh chóng. Nhưng không biết rằng, sử dụng quá liều có nguy cơ bị tác dụng phụ như dị ứng thuốc (ngứa da, sưng phù mắt và mặt), tiêu chảy, đầy bụng…

– Uống những loại thuốc không có nguồn gốc: Tin vào những bài thuốc được truyền miệng không rõ nguồn gốc có nghĩa là bạn đang đặt tính mạng treo lơ lửng với các nguy cơ bị suy đa tạng, có thể gây tử vong và nhiều tác dụng phụ ngoài mong muốn.

– Không kiểm tra đường huyết thường xuyên: Không theo dõi đường huyết hàng ngày là sai lầm khiến bạn không biết tình trạng bệnh tiến triển như nào, theo chiều hướng xấu hay tốt khi áp dụng các cách hạ đường huyết nhanh. Vì thế, khi gặp phải các triệu chứng nặng nề, trường hợp phải đi cấp cứu thì bệnh nhân mới nhận ra mình đang kiểm soát đường huyết sai cách.

Vậy có cách nào hạ đường huyết nhanh, mà an toàn, hiệu quả đối với người bệnh tiểu đường?

2. Các cách hạ đường huyết nhanh mà bệnh nhân tiểu đường có thể áp dụng

Ông bà ta thường có câu: “Dục tốc bất đạt” mang ý nghĩa rất sâu sắc trong điều trị bệnh. Dưới đây là các cách hạ đường huyết nhanh đạt hiệu quả mà đem lại sự an toàn cho người bệnh mà có thể áp dụng ngay:

– Chế độ ăn uống lành mạnh

Thay vì ăn kiêng kham khổ hay bỏ bữa để giảm cân, người bệnh nên chia nhỏ bữa ăn thành 5 – 6 bữa mỗi ngày, ngoài bữa chính, ăn thêm các bữa phụ để kiểm soát lượng đường huyết dễ dàng hơn.
Ăn bổ sung các loại gạo lứt, ngũ cốc nguyên vỏ, yến mạch,…vừa có hàm lượng chất xơ cao lại không làm tăng đường huyết sau ăn.

+ Cắt giảm lượng tinh bột thích hợp

Carbohydrate được tìm thấy trong các loại thực phẩm giàu tinh bột, các loại đậu, một số rau củ,…Một chế độ ăn chứa ít tinh bột giúp duy trì lượng đường trong máu ổn định, cắt giảm hợp lý carbohydrate, bổ sung nhiều rau xanh, thịt nạc, các loại hạt là cách hạ đường huyết nhanh chóng.

Cách hạ đường huyết nhanh 2
Cắt giảm lượng tinh bột phù hợp và ăn thêm nhiều rau xanh

+ Phân bổ lượng tinh bột trong ngày

Nếu bạn vẫn chưa quen với chế độ giảm lượng lớn carbohydrate, thì có thể thử cách phân bổ đều chúng trong ngày. Ví dụ nếu ăn hết ngay một quả táo làm gia tăng lượng đường trong máu thì bạn có thể cắt đôi để dùng cho lần tiếp. Cách này giúp lượng đường trong máu ổn định, không tăng đột ngột, đồng thời còn giảm cơn thèm ăn, ít cảm thấy đói.

+ Uống trà không đường

Uống các loại trà đen, trắng và xanh lá cây là cách hạ đường huyết nhanh chóng trong vòng ít nhất 30 phút. Nhưng nên chú ý bạn không nên bỏ đường, hạn chế dùng đường là điều cần thiết với người tiểu đường.

+ Chiết xuất trà xanh

Với những người không quen uống trà, có thể thay thế bằng chiết xuất trà xanh ở dạng viên thuốc, đem lại hiệu quả trong việc giảm lượng đường chưa đầy 1 giờ sau khi sử dụng.

+ Uống nhiều nước mỗi ngày

Sử dụng đồ uống tinh khiết như nước lọc sẽ giúp lượng đường trong máu được hạ xuống, giúp các tế bào dễ dàng loại bỏ đường huyết dư thừa qua nước tiểu mà không gây hại cho cơ thể.

+ Uống rượu vang đỏ

Rượu vang đỏ giúp ngăn chặn sự hấp thu glucose ở ruột, những rượu không phải là phương pháp kiểm soát đường huyết lâu dài bởi có thể làm tăng lượng mỡ ở gan.

Cách hạ đường huyết nhanh 3
Rượu vang đỏ là một lựa chọn giúp hạ đường huyết nhưng không nên sử dụng thường xuyên

+ Hạt Methi (cỏ cà ri hoặc khổ đậu)

Chiết xuất từ hạt Methi thường được dùng cho người mới sinh trong quá trình sản xuất sữa mẹ, hạt có tác dụng làm chậm sự hấp thu đường vào máu. Tuy nhiên, không nên lạm dụng quá nhiều loại hạt này.

– Luyện tập thể dục nhẹ nhàng

Chọn những bài tập nhẹ nhàng phù hợp với tình trạng bệnh của từng người. Người tiểu đường có thể lựa chọn những bài tập như đi bộ, đạp xe, bơi lội, yoga,…Đây là một trong những yếu tố quan trọng giúp cải thiện mức độ nhạy cảm của cơ thể với insulin và hạ đường huyết máu.

Một người có thể hạ thấp 40mg lượng đường trong máu khi đi bộ tầm 20 phút.

Cách hạ đường huyết nhanh 4
Lựa chọn bài tập thể thao phù hợp với người tiểu đường

– Kiểm soát đường huyết

Nên thường xuyên kiểm tra đường huyết và ghi chép thành nhật ký theo dõi bệnh. Thói quen này vừa giúp bác sĩ có con số cụ thể để biết tình trạng bệnh của bạn, vừa giúp bạn điều chỉnh chế độ ăn uống, tập luyện.

– Thư giãn tinh thần, kiểm soát căng thẳng

Khi người bệnh rơi vào tình trạng căng thẳng, cơ thể sẽ tiết ra một loại hormone như glucagon và cortisol làm tăng đường huyết và giảm bài tiết insulin. Hãy thư giãn bằng tập yoga hoặc các hoạt động ưa thích.

– Ngủ 8 tiếng một ngày

Thói quen ngủ muộn và không đủ giấc không gây trực tiếp làm tăng lượng đường trong máu nhưng ảnh hưởng đến quá trình bài tiết insulin sau bữa ăn và làm giảm độ nhạy của cơ thể với loại hormone này. Khi thiếu ngủ, bệnh nhân sẽ ăn nhiều hơn và đối mặt với tình trạng tăng cân khó kiểm soát.

Cách hạ đường huyết nhanh 5
Người bệnh nên ngủ đủ giấc

– Khám bệnh định kỳ và trao đổi thường xuyên với bác sĩ

Người bệnh nên trao đổi với bác sĩ các dấu hiệu bất thường mà dạo gần đây hay gặp phải, thông tin bệnh lý, các phương pháp điều trị đang thực hiện. Để bác sĩ có thể nắm rõ tình hình và đưa ra kết luận về sự ảnh hưởng từ các cách hạ đường huyết nhanh tới sức khỏe của bạn và có sự điều chỉnh kịp thời trước khi hậu quả xảy ra.

Tất cả những phương pháp được liệt kê trên đều giúp người bệnh tiểu đường có thể ổn định đường huyết một cách chắc chắn, hiệu quả và an toàn cho sức khỏe. Bệnh nhân không cần phải tìm một cách hạ đường huyết nhanh nhất bởi đó có thể là cách điều trị không an toàn và có thể gây ra nhiều biến chứng nguy hiểm đến tính mạng.

Bạn đang xem bài viết:Rủi ro với những cách hạ đường huyết nhanh là gì?” tại Chuyên mục:Ngân hàng câu hỏi“.

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ
Hầu hết, bệnh nhân tiểu đường đều hoang mang khi được chẩn đoán mắc bệnh. Trước tiên, họ không biết do đâu mình bị căn bệnh này, tình trạng của họ như thế nào và có chữa được không…là câu hỏi rất thường gặp. Và hiển nhiên, việc tìm hiểu những vấn đề xung quanh bệnh là điều cần thiết giúp cho việc ngăn ngừa và kiểm soát. Tại bài viết này, sẽ đi giải đáp câu hỏi về bệnh tiểu đường tuýp 2 nặng hay nhẹ? mắc tiểu đường đường tuýp 1 có phải sẽ nặng hơn tiểu đường hay không?

Trước tiên, muốn tìm hiểu bị bệnh tiểu đường tuýp 2 là nặng hay nhẹ, chúng ta sẽ cùng tìm hiểu về bệnh tiểu đường tuýp 2 là gì và do đâu mọi người lại dễ mắc bệnh này.

1. Tiểu đường tuýp 2 là gì?

Bệnh tiểu đường tuýp 2 trước đây thường được gọi là tiểu đường không phụ thuộc insulin hay tiểu đường khởi phát ở tuổi trưởng thành. Cho đến nay, loại tiểu đường này là dạng phổ biến nhất, ảnh hưởng đến 85 – 90 % tổng số bệnh nhân tiểu đường.

Dù là loại bệnh thường gặp ở người lớn, nhưng hiện nay càng nhiều thanh niên, thậm chí là trẻ em cũng phát bệnh tiểu đường tuýp 2.

Tiểu đường tuýp 2 là bệnh khởi phát do lối sống và có nhiều liên quan đến các vấn đề như cao huyết áp, mỡ máu, thừa cân, béo phì

Bệnh nhân tiểu đường tuýp 2 thường kháng insulin, nghĩa là tuyến tụy vẫn tiết một lượng insulin nhất định nhưng insulin này không hoạt động hiệu quả như mong muốn. Tuyến tụy sẽ phản ứng lại bằng cách cố tạo thêm insulin, cuối cùng không thể tạo đủ để giữ cân bằng lượng đường trong máu và mức đường huyết tăng cao.

Đi tìm lời giải đáp: Bị bệnh tiểu đường tuýp 2 là nặng hay nhẹ?
Đi tìm lời giải đáp: Bị bệnh tiểu đường tuýp 2 là nặng hay nhẹ? (ảnh: Internet)

2. Nguyên nhân dẫn tới bệnh tiểu đường tuýp 2

Nhìn chung, có nhiều nguyên nhân gây bệnh tiểu đường tuýp 2, một số yếu tố có thể thay đổi được, một số khác thì không. Cùng điểm danh các nguyên nhân bệnh tiểu đường sau đây:

Các yếu tố nguy cơ không thay đổi được gồm:

– Tiền sử gia đình có người mắc tiểu đường

– Tuổi tác – nguy cơ tăng khi tuổi càng cao

– Người bệnh có nguồn gốc là người dân đảo Torres Strait hay người bản địa Aboriginal

– Người bệnh có gốc gác là những sắc tộc có nhiều khả năng bị tiểu đường tuýp 2 như Melanesian (quần đảo Tây Nam Thái Bình Dương), Trung quốc, Polynesian hay từ tiểu lục địa Ấn độ

– Phụ nữ sinh em bé trên 4.5 kg hoặc từng bị tiểu đường thai kỳ khi mang thai

– Phụ nữ bị Hội chứng Đa Noãn sào (buồng trứng đa nang)

Các yếu tố nguy cơ có thể thay đổi được:

– Lối sống (hoạt động thể chất, loại thức ăn thường dùng)

Chế độ ăn uống không khoa học, dư thừa chất béo, tinh bột, lười vận động thể chất… khiến tuyến tụy phải tăng cường hoạt động, lâu dần suy yếu chức năng, ảnh hưởng đến quá trình chuyển đổi glucose thành năng lượng.

– Cân nặng cơ thể

Đối với những người béo phì, cơ thể xuất hiện trạng thái bệnh lý đặc thù gọi là chất đề kháng insulin, sau một thời gian dài tuyến tụy phải hoạt động quá mức khiến cho chức năng sản xuất insulin suy giảm, người đó sẽ bị thiếu insulin.

Cholesterol (mỡ trong máu)

Tác hại của máu nhiễm mỡ có thể là nguyên nhân của bệnh tiểu đường tuýp 2 và ngược lại. Mối liên hệ này đã được các nhà khoa học nghiên cứu và chứng minh, chỉ số triglyceride cao kết hợp cũng làm tăng nguy cơ bị bệnh tiểu đường.

– Hút thuốc

Một số nghiên cứu đã chỉ ra, khói thuốc lá ảnh hưởng đến tình trạng kháng insulin cũng như giảm khả năng sản xuất insulin của tuyến tụy. Những người hút thuốc có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường cao hơn những người không hút thuốc 14%.

Đi tìm lời giải đáp: Bị bệnh tiểu đường tuýp 2 là nặng hay nhẹ? 1
Yếu tố nguy cơ dẫn đến bệnh tiểu đường (ảnh: Internet)

Hiện nay, số lượng bệnh nhân tiểu đường tuýp 2 đang gia tăng nhanh chóng ở châu Á bao gồm cả Việt Nam và đây là một vấn đề đáng được quan tâm.

Nguyên nhân được cho là do thói quen ăn uống Tây hóa. Những thực phẩm từ phương Tây thường là loại thực phẩm có hàm lượng calo cao và dễ dàng tích lũy chất béo nội tạng. Bên cạnh đó thói quen lười vận động và rượu bia cũng ảnh làm tăng nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2. Bên cạnh đó, người Châu Á có lượng bài tiết insulin thấp hơn so với người phương Tây, do vậy, người Châu Á dễ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 ngay cả khi bị béo phì nhẹ.

Thay đổi lối sống lành mạnh có thể hoãn việc điều trị bằng thuốc uống hoặc tiêm insulin. Tuy nhiên, nếu phải dùng đến thuốc hoặc insulin thì đây cũng là tiến trình tự nhiên của bệnh, dùng càng sớm nếu cần càng có thể giảm được các biến chứng do bệnh tiểu đường gây ra.

3. Bệnh tiểu đường tuýp 2 là nặng hay nhẹ do sự tiến triển của biến chứng

Theo số liệu thống kê trên thế giới, bệnh tiểu đường là 1 trong 3 bệnh gây tử vong cao nhất, đứng sau tim mạch và ung thư. Tuy nhiên, người bệnh tiểu đường tuýp 2 ít có nguy cơ tử vong do chính bệnh này (tình trạng tăng đường huyết) mà chủ yếu tử vong vì ảnh hưởng của biến chứng. Có thể nói, bệnh tiểu đường tuýp 2 là nặng hay nhẹ phụ thuộc vào sự tiến triển của biến chứng, bệnh nhân sẽ phải đối mặt với các bệnh như: tim mạch, đột quỵ, suy thận, mù lòa, đoạn chi…Được biết 65% bệnh nhân tiểu đường tử vong là do biến chứng tim mạch.

– Bệnh thần kinh do tiểu đường

Bệnh thần kinh do tiểu đường là một biến chứng khi tình trạng tăng đường huyết ảnh hưởng xấu tới dây thần kinh tay và chân, gây ra cảm giác như đau, tê ở ngón chân, bàn chân và ngón tay.

Một số bệnh nhân có thể bị loét chân và nặng hơn bị hoại tử phải cắt bỏ chân. Nếu người bệnh xuất hiện các triệu chứng sớm nên đi khám và điều trị kịp thời.

– Bệnh võng mạc tiểu đường

Bệnh võng mạc tiểu đường có thể dẫn đến mù lòa, nhưng đây là một trong những biến chứng tiến triển mà không có bất kỳ triệu chứng chủ quan nào. Bệnh nhân cần thực hiện kiểm tra đáy mắt ít nhất một năm một lần để phát hiện sớm.

Bệnh thận do tiểu đường

Khi bệnh thận tiến triển, khả năng bài tiết chất thải của thận bị suy giảm, cuối cùng bệnh nhân cần phải điều trị lọc máu. Vì biến chứng này cũng tiến triển mà không có triệu chứng, nên người bệnh cần kiểm tra định kỳ chức năng của thận để phát hiện sớm.

– Xơ vữa động mạch (đột quỵ, bệnh tim)

Bệnh tiểu đường gây ra xơ vữa động mạch và là nguyên nhân dẫn đến nguy cơ bệnh tim mạch và đột quỵ.

Ngoài kiểm soát bệnh tiểu đường, bệnh nhân cần kiểm soát huyết áp cao, rối loạn lipid máu và béo phì để giảm xơ vữa động mạch. Sự kết hợp của bốn yếu tố liên quan đến lối sống này làm tăng nhanh tình trạng xơ vữa động mạch và tăng nguy cơ mắc bệnh tim và đột quỵ.

Thời gian biến chứng của bệnh tiểu đường 3
Thời gian biến chứng của bệnh tiểu đường khởi phát khi nào?

Do đó, bệnh tiểu đường tuýp 2 là nặng hay nhẹ phụ thuộc vào cách kiểm soát bệnh của bản thân người bệnh, càng nhiều biến chứng xuất hiện, bệnh càng khó điều trị, cản trở cuộc sống của bệnh nhân và tăng nguy cơ tử vong.

4. Mức độ nặng nhẹ của bệnh tiểu đường tuýp 2 so với bệnh tiểu đường tuýp 1?

Bệnh tiểu đường tuýp 1 xảy ra do tuyến tụy mất khả năng sản xuất insulin, do đó khi bệnh nhân mắc bệnh các triệu chứng xuất hiện rất trầm trọng. Bệnh nhân có thể dễ dàng phát hiện và điều trị sớm nên giảm nguy cơ mắc các biến chứng sau này. Đối với bệnh tiểu đường tuýp 2, bệnh nhân có thể không biết mình mắc bệnh trong nhiều năm do bệnh tiến triển âm thầm, nhiều trường hợp có biến chứng ngay tại thời điểm chẩn đoán.

Rất khó so sánh bệnh tiểu đường tuýp 2 là nặng hay nhẹ hơn bệnh tiểu đường tuýp 1, người bệnh cần hiểu rõ đặc điểm từng loại bệnh để tránh ảnh hưởng tới tâm lý, tác động xấu tới hiệu quả điều trị.

Nhìn chung, khi phát hiện sớm và điều trị kịp thời, bệnh nhân sẽ kiểm soát bệnh tốt hơn và có thể ngăn ngừa các biến chứng bệnh tiểu đường. Có thể nói rằng: “Tiểu đường tuýp 2 nặng hay nhẹ phụ thuộc phần lớn vào chính bản thân bệnh nhân”.

Bạn đang xem bài viết:Bị bệnh tiểu đường tuýp 2 là nặng hay nhẹ?” tại Chuyên mục:Ngân hàng câu hỏi“.

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ
Nhiều người bệnh thắc mắc không biết bệnh tiểu đường tuýp 3 là gì? Liệu tiểu đường tuýp 3 khác gì so với tiểu đường tuýp 1, tuýp 2…Tiểu đường tuýp 3 có phải tên gọi khác của tiểu đường thai kỳ? Cùng tìm hiểu ngay tại bài viết dưới đây.

1. Bệnh tiểu đường tuýp 3 là gì?

Bệnh tiểu đường tuýp 3 là một thuật ngữ được gọi chung cho những người bệnh Alzheimer khởi phát bởi tình trạng kháng insulin trong não (bệnh nhân tiểu đường tuýp 2 được chẩn đoán mắc bệnh Alzheimer hay mất trí nhớ).

Bệnh tiểu đường là tình trạng cơ thể gặp khó khăn khi chuyển hóa đường thành năng lượng, phổ biến 2 loại bệnh tiểu đường:

Bệnh tiểu đường tuýp 1 là một tình trạng mãn tính, trong đó cơ thể không sản xuất đủ lượng hormone insulin.

Bệnh tiểu đường tuýp 2 là một tình trạng mãn tính trong đó cơ thể đề kháng insulin dẫn đến lượng đường trong máu cao.

Nghiên cứu mới đang đề xuất rằng bệnh Alzheimer cũng nên được phân loại là một loại bệnh tiểu đường, được gọi là bệnh tiểu đường tuýp 3. Sự phân loại này còn gây tranh cãi nhưng hầu hết các bác sĩ đều sẵn sàng sử dụng tên gọi này cho đến khi có nhiều nghiên cứu được thực hiện thêm.

Những điều cần biết về bệnh tiểu đường tuýp 3?
Những điều cần biết về bệnh tiểu đường tuýp 3? (ảnh: Internet)

2. Mối liên hệ giữa bệnh tiểu đường và bệnh Alzheimer

Các nhà nghiên cứu cho rằng cơ chế liên kết giữa bệnh tiểu đường tuýp 2 và bệnh Alzheimer là do tính kháng insulin cũng xảy ra trong não. Vì thế, trong não của bệnh nhân mắc bệnh Alzheimer, insulin không thể tạo ra sự truyền tín hiệu thụ thể thành công.

Theo thời gian, nếu bệnh nhân không kiểm soát tốt bệnh tiểu đường, bệnh sẽ gây những tổn thương tới mạch máu, bao gồm cả mạch máu trong não. Vì nhiều người mắc bệnh tiểu đường loại 2 không biết rằng họ mắc bệnh, vì thế những người mắc bệnh tiểu đường loại 2 có nguy cơ biến chứng này cao hơn .

Bệnh tiểu đường cũng làm mất cân bằng chất hóa học trong não, có thể gây ra bệnh Alzheimer. Và tình trạng lượng đường trong máu cao kéo dài gây viêm có thể làm hỏng các tế bào não.

Vì những lý do này, bệnh tiểu đường được coi là yếu tố nguy cơ của một tình trạng gọi là chứng mất trí nhớ mạch máu. Những triệu chứng như khó chịu, thờ ơ, đau đầu mệt mỏi, rối loạn giấc ngủ, suy nhược…có thể là một chẩn đoán độc lập của chứng mất trí nhớ mạch máu, nhưng nó cũng có thể là dấu hiệu cảnh báo về nguy cơ phát triển thêm thành bệnh Alzheimer.

3. Nguyên nhân và yếu tố nguy cơ của bệnh tiểu đường tuýp 3

Những người mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 có nguy cơ lên đến 60% tiến triển bệnh Alzheimer hoặc mất trí nhớ. Theo một nghiên cứu với hơn 100.000 đối tượng mắc trí nhớ đã chỉ ra rằng phụ nữ mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 có xác suất mắc chứng mất trí nhớ mạch máu cao hơn nam giới.

Các yếu tố nguy cơ của bệnh tiểu đường tuýp 2 bao gồm:

– Tiền sử gia đình mắc bệnh tiểu đường

Huyết áp cao

– Thừa cân hoặc béo phì

– Một số tình trạng sức khỏe mãn tính, chẳng hạn như trầm cảm và hội chứng buồng trứng đa nang (PCOS)

4. Triệu chứng của bệnh tiểu đường tuýp 3

Các triệu chứng của bệnh tiểu đường tuýp 3 giống như các triệu chứng của sa sút trí tuệ hoặc Alzheimer sớm. Những triệu chứng này bao gồm :

– Suy giảm trí nhớ ảnh hưởng đến cuộc sống hàng ngày và các tương tác xã hội

– Gặp khó khăn trong việc thực hiện các hoạt động thường ngày

– Hay nhầm lẫn

– Giảm khả năng phán đoán dựa trên thông tin

– Tính cách thất thường

5. Chẩn đoán bệnh tiểu đường tuýp 3

Không có xét nghiệm cụ thể đối với bệnh Alzheimer hoặc bệnh tiểu đường tuýp 3. Người bệnh sẽ được bác sĩ đặt một vài câu hỏi về lịch sử gia đình và các triệu chứng gặp phải. Qua chẩn đoán hình ảnh não MRI và CT Scanner, bác sĩ có thể phát hiện các khối u, bằng chứng của chứng đột quỵ nhẹ hoặc nặng, tổn thương từ các chấn thương đầu nghiêm trọng hay sự tích tụ dịch trong não. Bên cạnh đó, xét nghiệm dịch não tủy cũng có thể phán đoán chỉ số của Alzheimer.

Mọi người nếu có những triệu chứng của bệnh tiểu đường tuýp 2 và Alzheimer nhưng chưa được chẩn đoán mắc bệnh này, mọi người có thể chẩn đoán xét nghiệm đường huyết lúc đói và xét nghiệm HbA1c.

Nếu người bệnh mắc tiểu đường tuýp 2, điều cần thiết là phải bắt đầu điều trị ngay để có thể giảm thiểu ảnh hưởng tới não và làm chậm sự tiến triển của bệnh Alzheimer hoặc chứng suy giảm trí nhớ.

Những điều cần biết về bệnh tiểu đường tuýp 3? 1
Cần chuẩn đoán bệnh tiểu đường tuýp 2 để điều trị sớm (ảnh: Internet)

6. Điều trị bệnh tiểu đường tuýp 3

Những người mắc bệnh tiểu đường tuýp 2 hoặc bệnh Alzheimer cần thay đổi lối sống, chẳng hạn như chế độ ăn uống và tập thể dục, ảnh hưởng lớn tới quá trình điều trị.

Khuyến khích bệnh nhân nên có chế độ ăn ít chất béo và giàu trái cây và rau quả, việc làm giúp cải thiện các triệu chứng. Bên cạnh đó, những người hút thuốc được khuyến cáo nên bỏ thuốc lá.

Nếu bệnh nhân mắc cả bệnh tiểu đường tuýp 2 và bệnh Alzheimer, việc điều trị bệnh tiểu đường tuýp 2 là rất quan trọng để ngăn chặn sự tiến triển của bệnh Alzheimer. Tùy từng tình trạng bệnh, bệnh nhân sẽ được điều trị bằng thuốc uống hoặc insulin. Thuốc theo toa có sẵn để điều trị các triệu chứng của bệnh Alzheimer và suy giảm trí nhớ gồm thuốc kháng cholinesterase như donepezil (Aricept), galantamine (Razadyne) và Rivastigmine (Exelon). Memantine (Namenda) có thể làm chậm sự tiến triển của bệnh Alzheimer.

Các triệu chứng khác của bệnh Alzheimer và chứng suy giảm trí nhớ như thay đổi tâm trạng và trầm cảm, có thể được điều trị bằng thuốc hướng thần. Thuốc chống trầm cảm và thuốc chống lo âu là một phần của điều trị trong một số trường hợp.

7. Ngăn ngừa bệnh tiểu đường tuýp 3

Nếu người bệnh mắc bệnh tiểu đường tuýp 2, có nhiều cách giúp bệnh nhân có thể giảm nguy cơ phát triển bệnh tiểu đường tuýp 3. Dưới đây là một số phương pháp đã được chứng minh để kiểm soát bệnh tiểu đường tuýp 2 và ngăn ngừa biến chứng:

– Tập thể dục 30 phút mỗi ngày, ít nhất 4 lần mỗi tuần

Những điều cần biết về bệnh tiểu đường tuýp 3? 2
Bệnh nhân nên tập thể dục thường xuyên để ngăn ngừa biến chứng (ảnh: Internet)

– Ăn thực phẩm lành mạnh giàu protein và nhiều chất xơ

– Theo dõi cẩn thận lượng đường trong máu theo khuyến nghị của bác sĩ

– Dùng bất kỳ loại thuốc theo quy định theo lịch trình và đều đặn

– Theo dõi mức cholesterol

– Duy trì cân nặng khỏe mạnh

Những điều cần biết về bệnh tiểu đường tuýp 3? 3
Duy trì cân nặng tiêu chuẩn là tiền đề cho cuộc sống khỏe mạnh (ảnh: Internet)

Tên gọi bệnh tiểu đường tuýp 3 vẫn còn nhiều tranh cãi, tuy nhiên, nhiều nhà nghiên cứu tự hiểu với nhau rằng khi nói đến bệnh tiểu đường tuýp 3 nghĩa là bệnh nhân mắc đồng thời bệnh tiểu đường tuýp 2 và bệnh Alzheimer. Bệnh nhân nên được phát hiện sớm và điều trị kịp thời phòng ngừa nhiều biến chứng nguy hiểm, suy giảm chất lượng cuộc sống.

Bạn đang xem bài viết:Những điều cần biết về bệnh tiểu đường tuýp 3?” tại Chuyên mục:Ngân hàng câu hỏi“.

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ
Trong số các bệnh nội tiết và rối loạn chuyển hóa thì bệnh tiểu đường đang trở thành căn bệnh phổ biến và gia tăng nhanh chóng tại các nước phát triển và đang phát triển trên toàn thế giới. Nếu như 30 năm trước, Việt Nam phải đối mặt với tình trạng suy dinh dưỡng thì hiện nay chúng ta đang bị đe dọa bởi béo phì và bệnh tiểu đường. Bệnh tiểu đường là một trong ba nguyên nhân gây tử vong cao nhất thế giới, chỉ đứng sau bệnh tim mạch và ung thư. Thực trạng bệnh tiểu đường hiện nay đáng để người dân quan tâm và có sự cảnh giác nhất định.

1. Hiểu về bệnh tiểu đường

Bệnh tiểu đường hay đái tháo đường là tình trạng rối loạn chuyển hóa mạn tính, cơ thể không tự sản sinh insulin hoặc insulin tiết ra không đủ để hấp thu glucose trong máu dẫn đến lượng đường trong máu cao hơn mức bình thường.

Tùy thuộc vào từng nguyên nhân, bệnh tiểu đường có thể được chia chính thành 3 loại sau đây: bệnh tiểu đường tuýp 1, bệnh tiểu đường tuýp 2, bệnh tiểu đường thai kỳ. Những nguyên nhân gây bệnh tiểu đường có thể là do di truyền, các thói quen sinh hoạt như lười vận động, ăn nhiều chất béo, đồ ngọt quá nhiều…Mọi người phải có ý thức cảnh giác đối với bệnh tiểu đường vì đây là căn bệnh gây chết người đứng thứ ba thế giới sau ung thư và bệnh tim mạch.

Thực trạng bệnh tiểu đường hiện nay đáng được cảnh báo như thế nào?
Thực trạng bệnh tiểu đường hiện nay đáng được cảnh báo như thế nào? (Ảnh: Internet)

2. Thực trạng bệnh tiểu đường hiện nay và gánh nặng bệnh tiểu đường tới xã hội

2.1 Trên thế giới

Thực trạng bệnh tiểu đường hiện nay trên thế giới được Hiệp hội đái tháo đường thế giới (IDF) thống kê với con số hơn 425 triệu người, nghĩa là cứ 11 người thì có 1 người mắc bệnh tiểu đường. Trong đó, cứ 2 người mắc bệnh tiểu đường thì 1 người không biết mình bị bệnh (không đi kiểm tra chẩn đoán bệnh tiểu đường). Việc điều trị muộn sẽ dẫn đến nhiều biến chứng nguy hiểm và ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng cuộc sống và sức khỏe của bệnh nhân.

Theo dự đoán, số người mắc bệnh tiểu đường trên thế giới sẽ tăng lên 522 triệu người vào năm 2030, và con số này sẽ còn tăng nhanh hơn nữa nếu mọi người chủ quan đối với căn bệnh này.

Một số con số ấn tượng khác về thực trạng bệnh tiểu đường hiện nay cũng đã được thống kê dưới đây:

+ Trên thế giới, mỗi năm có khoảng 132.600 trẻ em được chẩn đoán mắc bệnh tiểu đường tuýp 1. Con số bệnh nhân tiểu đường tuýp 1 ở trẻ em từ (0-19 tuổi) là hơn 1 triệu người.

+ Có hơn 21 triệu phụ nữ bị tăng đường huyết và có khả năng dung nạp đường kém trong thai kỳ, tương đương 1/6 đối tượng phụ nữ mang thai.

+ 2/3 đối tượng mắc bệnh tiểu đường là người cao tuổi, tuy nhiên, số người trẻ tuổi bị tiểu đường ngày càng tăng.

+ Cứ 6 giây có 1 người tử vong do các biến chứng tiểu đường

+ Năm 2017 con số người chết do bệnh tiểu đường khoảng 4 triệu người.

+ Thống kê chi phí điều trị bệnh tiểu đường năm 2017 trên toàn thế giới là 727 tỷ đô la. Nhiều hơn chi phí quốc phòng của cả Hoa Kỳ và Trung Quốc.

Có thể thấy, bệnh tiểu đường đang trở thành gánh nặng trên toàn thế giới.

2.2 Tại Việt Nam

Tại Việt Nam, tỷ lệ bệnh nhân tiểu đường đang gia tăng nhanh chóng, số người mắc bệnh tăng gấp đôi trong 10 năm qua.

Năm 2017, thực trạng bệnh tiểu đường hiện nay ở Việt Nam với số bệnh nhân tiểu đường là 3,54 triệu người (chiếm tỷ lệ 5,5% dân số). Nhóm bệnh nhân tiền tiểu đường (bị rối loạn dung nạp glucose) là 4,79 triệu người (chiếm 7,4% dân số).

Như vậy, cứ trong 7,5 người thì có một người mắc bệnh tiểu đường hoặc tiền tiểu đường.

Con số bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường ở Việt Nam dự đoán sẽ tăng lên chiếm 7,7% dân số vào năm 2045.

Thực trạng bệnh tiểu đường hiện nay đáng được cảnh báo như thế nào? 1
Số người bị bệnh tiểu đường tại Việt Nam đang gia tăng nhanh chóng với nhiều biến chứng nguy hiểm (ảnh: Internet)

Được biết, nguyên nhân khiến bệnh tiểu đường gia tăng nhanh chóng tại Việt Nam là do nhận thức về bệnh tiểu đường của người dân còn mờ nhạt, kiến thức đầy đủ về bệnh chưa được lan rộng. IDF cho biết, hơn một nửa bệnh nhân tiểu đường ở Việt Nam chưa được tiến hành khám và điều trị bệnh, đây là con số đáng lo ngại do nếu không được điều trị kịp thời thì tiến triển của biến chứng sẽ ngày càng nặng hơn.

Bên cạnh đó, nhiều nguyên nhân bắt nguồn từ lối sống sinh hoạt của người dân. Việt Nam hiện nay đang trên đà tăng trưởng kinh tế và du nhập nhiều phong cách sống của Phương Tây. Trước kia, bữa ăn truyền thống của người Việt Nam thường có gia vị nhạt hơn, ít calo và có lợi cho sức khỏe. Tuy nhiên, trong 10 năm qua, bữa ăn của người Việt phổ biến hơn theo xu hướng có hàm lượng calo và chất béo cao. Ngoài ăn uống thì đô thị hóa cũng khiến mọi người lười vận động hơn, không chăm lo sức khỏe thể chất cũng là một nguyên nhân dẫn đến bệnh tiểu đường.

Thiệt hại kinh tế do bệnh tiểu đường của một bệnh nhân Việt Nam theo báo cáo của WHO (Tổ chức Y tế Thế Giới) được thống kê là 162,7 USD (tương đương gần 40 triệu VNĐ/năm) . Có thể thấy gánh nặng do bệnh tiểu đường ảnh hưởng rất lớn tới người bệnh và gia đình. Vì vậy, phòng ngừa bệnh tiểu đường là rất cần thiết và để thực hiện điều này thì chính bản thân mỗi người phải có những kiến thức nhất định.

Bệnh tiểu đường gây nhiều biến chứng nguy hiểm ảnh hưởng tới tim mạch, thận, mắt, thần kinh…Và với thực trạng bệnh tiểu đường hiện nay, Việt Nam cần tăng cường việc giám sát bệnh, nâng cao hệ thống bảo hiểm y tế, tăng cường công tác phòng ngừa bệnh trên toàn xã hội. Hy vọng rằng, thực trạng sức khỏe của người dân Việt Nam hay thực trạng về bệnh tiểu đường nói riêng sẽ có những bước cải thiện đáng kể trong tương lai, nâng cao chất lượng cuộc sống.

Bạn đang xem bài viết:Thực trạng bệnh tiểu đường hiện nay tại Việt Nam” tại Chuyên mục:Ngân hàng câu hỏi“.

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ
Bệnh nhân tiểu đường có thể lo lắng rằng bản thân bị tiểu đường thì con cái cũng có nguy cơ tiến triển căn bệnh này. Vậy bệnh tiểu đường có di truyền không? Bệnh tiểu đường di truyền như thế nào? Bị tiểu đường có phải bệnh di truyền từ bố mẹ hay ông bà? Có sự khác nhau về di truyền giữa tiểu đường tuýp 1 và tuýp 2 không? Xem ngay bài viết để tìm hiểu chi tiết!

Bệnh tiểu đường dường như không có sự đặc trưng nhất định về sự di truyền. Tuy nhiên, rõ ràng, một số người sinh ra có nhiều nguy cơ mắc bệnh hơn những người khác. Trước tiên, để biết rằng bệnh tiểu đường có di truyền không, chúng ta cần làm rõ nguyên nhân dẫn đến bệnh tiểu đường.

1. Yếu tố khởi phát bệnh tiểu đường

Bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 và tiểu đường tuýp 2 thường do những nguyên nhân khác nhau. Tuy nhiên, có hai nguyên nhân chung cần được nhắc đến đó là yếu tố di truyền và sự tác động từ môi trường.

1.1 Bệnh tiểu đường tuýp 1

Trong hầu hết các trường hợp mắc bệnh tiểu đường tuýp 1, mọi người sẽ thừa hưởng các yếu tố nguy cơ từ cả bố và mẹ. Và yếu tố nguy cơ di truyền thường xuất phát từ người da trắng vì người da trắng có tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 cao nhất.

Bệnh tiểu đường có di truyền không? 3
Hầu hết, khi mắc bệnh tiểu đường tuýp 1, người đó sẽ thừa hưởng yếu tốt di truyền từ bố và mẹ (Ảnh: Internet)

Theo các nghiên cứu về yếu tố môi trường ảnh hưởng đến sự khởi phát bệnh tiểu đường tuýp 1, các nhà khoa học đưa ra một yếu tố đó là thời tiết lạnh. Bệnh tiểu đường tuýp 1 khởi phát vào mùa đông nhiều hơn vào mùa hè và phổ biến hơn ở nơi có khí hậu lạnh. Virut cũng là một nhân tố môi trường gây bệnh tiểu đường, tuy nhiên, tác nhân virut chỉ là yếu tố nhỏ gây bệnh đối với đa số những người mắc bệnh tiểu đường.

Ngoài ra, thời gian bú sữa mẹ cũng là một yếu tố nguy cơ của bệnh tiểu đường tuýp 1, bệnh tiểu đường tuýp 1 ít phổ biến hơn ở những người có thời gian bú sữa mẹ trong 6 tháng đầu. Những đứa bé ăn dặm sớm tầm sau 4 tháng có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường, béo phì cao hơn những đối tượng khác.

Ở nhiều người, sự phát triển bệnh tiểu đường tuýp 1 dường như diễn ra trong nhiều năm, phát triển chậm rãi. Trong các thí nghiệm theo dõi những người mắc bệnh tiểu đường tuýp 1, các nhà nghiên cứu phát hiện rằng trong cơ thể họ có tồn tại một số tự kháng thể trong máu trong nhiều năm trước đó (protein được gọi là “tự kháng thể” sẽ nhầm lẫn tự tấn công và phá hủy tế bào).

1.2 Bệnh tiểu đường tuýp 2

Bệnh tiểu đường tuýp 2 có mối liên hệ chặt chẽ về lịch sử gia đình và dòng dõi hơn so với tuýp 1, các nghiên cứu về cặp song sinh là những minh chứng rõ ràng nhất về sự khởi phát này.

Tuy nhiên, bệnh tiểu đường tuýp 2 cũng phụ thuộc vào các yếu tố môi trường như ăn uống, vận động và những yếu tố này có xu hướng phụ thuộc vào lối sống của gia đình.

Vì thế, đối với bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường tuýp 2, chúng ta rất khó tìm ra nguyên nhân bệnh tiểu đường xuất phát từ yếu tố lối sống hay do đặc điểm di truyền. Nhiều khả năng bệnh tiểu đường khởi phát từ cả hai yếu tố. Tuy nhiên, những yếu tố nguy cơ này có thể được cải thiện bằng những chế độ giảm cân, tập luyện và ăn uống lành mạnh.

2. Bệnh tiểu đường có di truyền không?

Có thể thấy rằng, yếu tố di truyền đều tác động đến sự khởi phát bệnh tiểu đường tuýp 1 và tuýp 2. Nhưng cũng cần khẳng định rằng, chỉ riêng yếu tố di truyền là không đủ, một bằng chứng về điều này là cặp song sinh có gen giống hệt nhau. Tuy nhiên, khi một người sinh đôi mắc bệnh tiểu đường tuýp 1, người kia chỉ có 1/2 nguy cơ mắc bệnh, khi người sinh đôi mắc bệnh tiểu đường tuýp 2, nguy cơ mắc bệnh của người kia là 3/4.

Bệnh tiểu đường có di truyền không?
Bệnh tiểu đường có di truyền không? (Ảnh: Internet)

2.1 Bệnh tiểu đường tuýp 1 có di truyền không?

Bệnh tiểu đường tuýp 1 có các nguy cơ di truyền như sau:

– Nếu một người đàn ông mắc bệnh tiểu đường tuýp 1, tỷ lệ con của người đàn ông đó mắc bệnh tiểu đường là 6%. Bên cạnh đó, nếu một người phụ nữ mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 và sinh con trước tuổi 25, nguy cơ của đứa bé là 4%; nếu người phụ nữ sinh con sau tuổi 25, nguy cơ của đứa bé là 1%.

– Nguy cơ mắc bệnh tiểu đường của đứa bé sẽ tăng gấp đôi nếu bố và mẹ bị bệnh tiểu đường trước 11 tuổi.

– Nếu cả bố và mẹ đều mắc bệnh tiểu đường tuýp 1, nguy cơ đứa trẻ bị bệnh tiểu đường tuýp 1 nằm trong khoảng 10-25%.

Ngoài ra, có một trường hợp di truyền ngoại lệ so với những con số trên. Cứ 7 người thì có 1 người mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 kèm theo hội chứng tự miễn nhiều tuyến nội tiết tuýp 2 (type 2 autoimmune polyglandular syndrome). Ngoài việc mắc bệnh tiểu đường, những người này có tuyến giáp và tuyến thượng thận hoạt động kém, rối loạn một số hệ thống miễn dịch khác. Nếu bệnh nhân mắc hội chứng này, đứa con sinh ra có nguy cơ mắc hội chứng này và nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 là 50%.

Bệnh tiểu đường có di truyền không? 1
Bệnh tiểu đường tuýp 1 có di truyền không? (Ảnh: Internet)

Các nhà nghiên cứu đang tìm hiểu làm thế nào để dự đoán tỷ lệ mắc bệnh tiểu đường của một người. Ví dụ, hầu hết những người da trắng mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 đều có gen gọi là HLA-DR3 hoặc HLA-DR4. Vì thế, đứa trẻ thừa hưởng gen này, có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường sẽ cao hơn. Đối với người Mỹ gốc Phi, nguy cơ mắc bệnh tiểu đường là gen HLA-DR7 người Nhật là gen HLA-DR9, tuy nhiên, các gen nghi ngờ ở các nhóm dân tộc khác ít được nghiên cứu.

Có nhiều xét nghiệm khác cũng có thể cho thấy nguy cơ bệnh tiểu đường của đứa trẻ. Xét nghiệm cho biết cơ thể phản ứng với glucose như thế nào có thể cho biết trẻ em ở độ tuổi đi học nào có nguy cơ cao nhất. Một xét nghiệm khác có thể được thực hiện cho trẻ em có anh chị em mắc bệnh tiểu đường tuýp 1. Xét nghiệm này đo kháng thể insulin, các tế bào đảo trong tuyến tụy hoặc một loại enzyme gọi là glutamic acid decarboxylase. Mức cao có thể chỉ ra rằng một đứa trẻ có nguy cơ mắc bệnh tiểu đường tuýp 1 cao hơn.

2.2 Bệnh tiểu đường tuýp 2 có di truyền không?

Một phần, xu hướng bệnh tiểu đường tuýp 2 do trẻ học thói quen xấu: ăn uống không hợp lý, không tập thể dục… Và đây cũng là một yếu tố di truyền, yếu tố nguy cơ di truyền từ bố mẹ bị tiểu đường tuýp 2 khác là:

– Bố hoặc mẹ chẩn đoán tiểu đường tuýp 2 trước tuổi 50 thì nguy cơ đứa trẻ mắc tiểu đường tuýp 2 là 14%; chẩn đoán sau tuổi 50 thì nguy cơ là 7,7%.

– Nếu cả bố và mẹ đều bị tiểu đường tuýp 2 thì nguy cơ đứa trẻ mắc bệnh tiểu đường là 14%.

Bệnh tiểu đường có di truyền không? 2
Đứa trẻ bị tiểu đường tuýp 2 có thể do thói quen ăn uống của bố mẹ (ảnh: Internet)

Nói chung, bài viết trên đã giải đáp vấn đề: “Tiểu đường có di truyền không?”, những vấn đề tiểu đường di truyền ở tuýp 1 và tuýp 2. Và tóm lại, có nhiều bằng chứng cho thấy một phần bệnh tiểu đường tuýp 1 và tuýp 2 được xác định về mặt di truyền. Và việc xác định các gen góp phần gây nguy cơ bệnh tiểu đường sẽ cho phép xác định bệnh nhân mắc bệnh tiểu đường và có chiến lược ngăn ngừa nguy cơ, điều trị / can thiệp có mục tiêu.

Bạn đang xem bài viết:Bệnh tiểu đường có di truyền không?” tại Chuyên mục:Ngân hàng câu hỏi“.

https://kienthuctieuduong.vn/

Chia sẻ
Chia sẻ